TÔN GIẢ XÁ-LỢI-PHẤT ( trí tuệ siêu việt nhất)

08/10/20177:11 SA(Xem: 9524)
TÔN GIẢ XÁ-LỢI-PHẤT ( trí tuệ siêu việt nhất)

Tôn giả XÁ LỢI PHẤT: Trí tuệ đệ nhất

 


(Sariputra - Sariputa)
(Vị thượng thủ có trí tuệ siêu việt nhất)

 

TỪ KHI SANH RA ĐẾN LÚC ĐẠT THÁNH QUẢ

Câu chuyện bắt đầu từ trong hai làng Bà-la-môn ở Ấn Độ gọi là Upatissa và Kolita. Hai làng này cách xa thành Ràjagaha (Vương Xá) chẳng bao nhiêu. Trước khi đức Phật ra đời, có một thiếu phụ thuộc dòng Bà-la-môn tên Sàrì, sống trong làng Upatissa đã thụ thai (Cunda, Satipatthàna Samyutta và Chú Giải thì nơi sinh của Ngài là Nàlàkà - hay Nàlàgàma. Không chừng đó là tên phụ. Có điều chắc chắn là nơi ấy gần vùng Nalanda... Ở Nalanda có một Đại Học Đường đầu tiên trên thế giới. Chính Đường Huyền Trang đã tòng học tại đây. Còn ông Bà-la-môn, tức thân sinh của Đại Đức Sàrìputta tên là Vaganta), và đồng thời tại một làng khác gọi là Kolita, cũng có một thiếu phụ Bà-la-môn khác mang thai. Nhưng có điều lạ là cả hai thiếu phụ này thụ thai trong một ngày. Người thiếu phụ thứ hai tên là Moggallì. Hai gia đình của hai thiếu phụ này giao hảo với nhau rất thân mật và đã kết thân cùng nhau bảy đời. Kể từ ngày mới thụ thai, hai gia đình Bà-la-môn kia chăm sóc hai thiếu phụ ấy rất chu đáo và sau một thời gian đến ngày nở nhụy khai hoa, cả hai thiếu phụ đồng sinh ra hai đứa con trai cũng cùng trong một ngày. Trong lúc đặt tên cho đứa bé, thiếu phụ có tên Sàrì đã nhận tên Upatissa mà đặt cho con trai mình, bởi vì gia đình của nàng là một gia đình đứng đầu trong làng. Tương tự như thế, cậu bé con trai của nàng Bà-la-môn Moggallì bên làng kia lại được đặt tên là Kolita. Khi hai cậu bé bắt đầu khôn lớn, chúng được cha mẹ giáo dục thật chu đáo, và được học hỏi nhiều môn học từ những danh sư nổi tiếng nhất trong xứ. Hai cậu đã trở nên lão thông tất cả những môn học thời bấy giờ. Mỗi chàng trai xuất chúng ấy đều có hằng năm sáu trăm người thanh niên Bà-la-môn khác theo làm môn đệ. Họ thường dắt nhau đi thưởng cảnh bơi lội hoặc vào trong những công viên vừa giải trí vừa luận bàn thời sự. Upatissa hay dùng năm trăm chiếc võng, và Kolita với năm trăm cỗ mã xa. Hồi ấy tại thành Ràjagaha (Vương Xá) mỗi năm có một kỳ lễ tưng bừng giống như hội Vu Sơn. Đôi thanh niên trí thức này được mời ngồi vào những chiếc ghế danh dự để chứng kiến cuộc lễ. Thoạt đầu họ có vẻ vui thú khi những hồi trình diễn trở nên hào hứng, và họ đã tặng nhiều món tiền thưởng để các diễn viên, trình diễn thêm những màn đặc biệt mà họ thích nhất. Họ giải trí vui vẻ như vậy đến hai ngày, nhưng qua đêm thứ ba thì cả hai bỗng trở nên buồn bã, vì họ vừa ý thức được một điều gì. Họ không còn vui vẻ hay tươi cười nữa. Họ cũng chẳng màng treo thêm những món tiền thưởng hậu như hai ngày trước. Mỗi người đồng có một ý nghĩ: "Ở đây có gì lạ mà ta phải ngồi nhìn? Tất cả những người này khi đã đến trăm tuổi rồi thì họ sẽ phải đi theo thần chết. Vậy việc mà ta nên làm là mau mau đi tìm một con đường để thoát chết". Những ý nghĩ như vậy cứ lẩn quẩn trong đầu óc họ, ngay khi họ còn ngồi trong cuộc lễ. Sau đó Kolita bèn nói với Upatissa: - Này bạn Upatissa! Thế này là nghĩa làm sao? Do đâu bạn lại không vui vẻ và thích thú như hai ngày trước? Tôi nhìn bạn như đang lo âu một điều gì, vậy bạn có thể cho tôi biết được chăng? - Này bạn Kolita. Tôi thấy ngồi nhìn những cảnh tượng này chẳng lợi ích chi cả. Nó hoàn toàn vô vị. Tôi nghĩ phải đi tìm một con đường giải thoát cho chính tôi Kolita ạ. Đó là vấn đề mà tôi đang băn khoăn trong tâm. Nhưng mà còn anh nữa, anh Kolita ạ, tôi thấy anh cũng không có vẻ an tâm chút nào! Kolita đáp: - Tôi quả có sự suy tư đúng như anh vừa thốt. Khi biết rằng người bạn cùng mang một nỗi âu lo như mình, Upatissa bèn nói: - Đó là một mối quan tâm đáng khen của chúng ta. Nhưng muốn đi tìm một người thầy để dạy cho chúng ta con đường giải thoát, chỉ có cách là chúng ta phải rời bỏ nhà cửa để du phương và tìm sống với các bậc đạo sĩ hữu hạnh, song biết ẩn sĩ đắc đạo nào mà chúng ta theo bây giờ? Thuở ấy có một Giáo chủ sống trong thành Ràjagaha (Vương Xá). Vị này thuộc phái Du Sĩ Paribbàjaka, tên gọi là Sanjaya. Ông có một số môn đồ rất đông. Với ý định sẽ gia nhập làm môn đệ của vị ấy, Upatissa và Kolita bèn tìm đến đó. Mỗi người cùng dắt theo năm trăm thanh niên đồ đệ của mình rồi tất cả đều được nhận vào môn phái của Sanjaya. Kể từ đó tiếng thăm và hậu thuẫn của đạo sĩ Sanjaya liền trở nên vang dậy. Sau một thời gian ngắn, đôi bạn Upatissa và Kolita đã học hết học thuyết của Giáo chủ Sanjaya. Họ hỏi thầy đạo sĩ rằng: - Thưa thầy, giáo pháp của thầy chỉ có chừng ấy hay còn gì hay hơn nữa? Sanjaya đạo sĩ đáp: - "Chỉ có thể, và các ngươi đã biết cả rồi." Nghe vậy đôi bạn Upatissa và Kolita liền nghĩ: "Nếu chỉ có thế mà mình lại tiếp tục cuộc đời đạo sĩ này với ông ta thì vô ích quá! Mình đã lìa bỏ gia đình, sống đời để tìm giải thoát thế sự, mà theo ông thầy này mình chẳng được chi cả!". Rồi họ lại nghĩ tiếp: "Nhưng nước Ấn Độ rộng bao la, nếu mình kiên nhẫn tầm Sư không thối chuyển, cứ đi từ làng này qua làng khác, tỉnh nọ đến tỉnh kia chắc hẳn sẽ tìm được một vị thầy dạy cho ta phương pháp thoát tử!". Kể từ đó mỗi khi họ nghe có một đạo sĩ uyên bác nào, dù ở xa đi nữa, đôi bạn Kolita và Upatissa cũng tìm đến cầu đạo. Nhưng chẳng có một vị nào giải đáp nổi một câu hỏi của họ, trong khi đối với những người khác các vị đạo sĩ ấy đều tỏ ra thông suốt. Sau khi đi khắp cả xứ Ấn Độ, cả hai phải cùng quay về, và lúc về đến chỗ cũ, họ đồng cam kết với nhau rằng: "Trong hai người nếu ai tìm được con đường bất tử trước phải chỉ lại cho người kia". Từ đó họ chính thức kết làm huynh đệ và tình giao hữu giữa đôi thanh niên lại càng sâu đậm hơn. Chẳng bao lâu, sau khi Upatissa và bạn là Kolita hẹn ước như thế, thì đức Thế Tôn - đấng hoàn toàn Giác Ngộ lại đến thành đô Ràjagaha (Vương Xá). Vì khi Ngài đã thuyết xong một bài pháp nói "Lửa" tại thị trấn Gàya, Ngài bèn nhớ đến lời hứa mà Ngài đã hứa với vua Bimbisàra (Tần Bà Sa) trước khi đắc thành Chánh đẳng Chánh giác là Ngài sẽ trở lại thành Ràjagaha (Vương Xá) ngay sau khi Ngài đã đắc được đạo Giác Ngộ. Đức Thế Tôn di hành suốt quãng đường dài từ Gàyà đến thành Ràjagaha và được vua Bimbisàra thân hành đón tiếp tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana Vihàra). Trong số sáu mươi mốt vị Thánh A-la-hán mà đức Bổn Sư đã phái đi để truyền bá cho thế gian về ân đức của Tam Bảo (Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo), có Trưởng lão Assàji, người thuộc nhóm năm đạo sĩ trước đây là những vị đồng tu khổ hạnh với đức Thích Ca khi Ngài chưa đạt được giác ngộ, và cũng chính những vị đó sau này đã trở thành những đệ tử đầu tiên của Ngài. (Tức năm thầy Kiều Trần Như). Trưởng lão Assàji, sau khi đã du hành truyền đạo bèn trở lại thành Ràjagaha. Vào một buổi sáng nọ, trong khi Trưởng lão đang trì bình khất thực trong thành Ngài được Upatissa, người đang đi trên con đường dẫn đến tu viện thuộc phái đạo sĩ du phương Sanjaya, trông thấy. Bị kinh cảm bởi vẻ mặt trang nghiêm và thoát tục của Đại Đức Assàji, Upatissa nghĩ: "Trước đây ta chẳng bao giờ trông thấy một nhà sư như vậy. Ông ta phải là một trong những Thánh Tăng A-la-hán (Arahatta). Nếu không chắc hẳn Ngài cũng là người đang bước trên con đường đến Thánh quả A-la-hán? Tại sao ta không thử đến gần Ngài để tìm hiểu xem Ngài được thọ giáo với ai? Đâu là Đạo môn của Ngài và Ngài đã học được giáo lý như thế nào?". Nhưng Upatissa lại nghĩ: "Giờ phút này không tiện để cho ta đặt những câu hỏi như vậy vì Ngài còn đang khất thực trên đường phố. Tốt hơn ta nên theo sau Ngài như một người ngưỡng mộ". Và rồi Upatissa đã thực hiện ý nghĩ của mình. Sau khi đức Trưởng lão khất thực xong, Upatissa lại thấy Ngài dời chân đến một nơi khác, dường như với ý định chọn nơi thanh vắng để dùng bữa. Ông ta bèn tiến nhanh đến phía trước sửa soạn cho Ngài một chỗ ngồi bằng chiếc tọa cụ của chính ông đã mang theo, rồi ông cung kính dâng đến đức Trưởng lão Assàji. Khi Ngài dùng bữa xong thì Upatissa liền dâng đến Ngài nước rửa tay lấy từ trong bình đựng nước của ông, và cùng một cách như thế, ông đã lo lắng cho Ngài bằng tất cả cử chỉ của một người đệ tử đối với bậc thầy. Sau khi trao đổi với nhau với những lời chào hỏi thông thường, lịch sự và lễ phép, Upatissa nói: - Kính đạo sĩ, nét mặt của Ngài thanh tịnh quá. Phong thái của Ngài sao mà trong sạch sáng sủa thế. Kính đạo sĩ, vậy Ngài đã theo vị nào để trở thành thoát tục? Và ai là thầy của Ngài, cũng như Ngài đã thọ giáo ra sao? Đức Assàji đáp lời: - Này đạo hữu! Đúng vậy chính vị Giác Ngộ, người con cao quí của dòng Sakya chính là Bổn Sư của bần đạo. Đi trên con đường của Ngài, bần đạo đã tiến hóa. đức Thế Tôn ấy là bậc đã giải thoát, và cũng nhờ Pháp bảo của Ngài mà bần đạo đã được thanh tịnh. - Thưa đạo sĩ. Vị Đại phúc ấy chắc phải thông rõ vạn pháp và Ngài phải học hỏi có bao nhiêu mới đạt được mức thanh tịnh như thế? Bị chất vấn như vậy, đức Trưởng lão Assàji bèn tự nghĩ rằng: "Những học giả du phương này thường không hiểu pháp Ba la mật của đức Phật. Ta sẽ chỉ cho ông ta rõ Ba la mật pháp cao dày như thế nào?". Vì vậy Ngài nói: - Dù sao bần đạo hãy còn trên bước đường tu tập. Con đường giải thoát mà bần đạo đã đi kể từ khi xuất gia đến giờ chưa xa mấy. Bần đạo chỉ mới bước được vài bước thuộc vào những bước mở đầu trong giáo lý và phẩm hạnh này. Bần đạo không thể giải nghĩa Pháp bảo của đức Thế Tôn cặn kẽ đến đạo hữu được. Người tầm đạo ấy liền thưa: - Kính Đại Đức. Tôi tên là Upatissa, đang quyết lòng tìm đạo. Xin Ngài làm ơn chỉ dẫn cho tôi tùy theo khả năng của Ngài. Dù nhiều hay ít tôi cũng vẫn kính cẩn lắng nghe. Nếu là chánh pháp thì chỉ một câu đã giúp người thành tâm tìm ra nẻo giải thoát. Và ông ta năn nỉ tiếp: - Xin Ngài chỉ dạy cho tôi theo sức hiểu biết của Ngài. Với ánh sáng giác ngộ dù chỉ le lói đi nữa, nó vẫn có giá trị và đầy đủ khả năng giúp người thiện tâm tìm ra con đường chân lý. Để đáp lại, Trưởng lão Assàji ngâm kệ rằng: "Vạn pháp đều sanh ra bởi một Nhân, Đức Thế Tôn đã chỉ rõ Nhân của nó, Ngài cũng dạy cho cách diệt tắt, Nhân ấy! Đó chính là Giáo Pháp của bậc Đại Sa-môn". (Kệ ngôn trên đây ngày nay đã trở thành một trong những triết lý căn bản và nổi tiếng nhất của Phật giáo. Bất cứ lúc nào nó cũng có thể đóng vai như một sự nhắc nhở về lần tiếp xúc đầu tiên của Đại Đức Upatissa - Sàrìputta với Pháp bảo, và nó cũng là một sự ghi nhớ có giá trị về Trưởng lão Assàji, vị thầy đắc đạo A-la-hán của ông). Nhắc lại thanh niên Upatissa, khi nghe hết hai câu đầu, Upatissa đắc được Pháp Nhãn, chứng đạo Nhập Lưu (Tu Đà Hườn) và lúc dứt hai câu cuối cùng ông đã hoàn toàn lắng nghe với vẻ mặt của một người đang được giải thoát. Khi ông đã trở thành một bậc nhập Thánh Lưu rồi, và trước khi đạt được những quả vị cao hơn, ông đã cảm nhận rằng: "Ánh sáng cùng ý nghĩa của sự giác ngộ đã tìm thấy nơi đây rồi". Và ông cung kính nói với đức Trưởng lão: - Xin Ngài khỏi giải rộng thêm về Pháp bảo này nữa. Như thế đó là đủ tất cả. Upatissa xin qui y đấng Thế Tôn và Đại Đức. - Nhưng thưa Ngài. Hiện vị thầy của chúng ta đang ở đâu? - Này kẻ tầm đạo. Ngài đang ở trong Trúc Lâm tịnh xá. - Bạch Đại Đức! Thỉnh Đại Đức đi trước. Tôi có một người bạn và chúng tôi đã hẹn ước với nhau rằng: "Nếu ai tìm được đạo bất tử trước tiên sẽ chỉ dạy cho người kia. Vậy tôi phải đi thông báo cho người bạn tôi biết, rồi chúng tôi sẽ cùng theo con đường Ngài đã đi để đến ra mắt đấng Thiên Nhân Sư". Đoạn Upatissa cung kính mọp xuống tận bàn chân của đức Trưởng lão, lễ bái và từ giã Ngài để trở lại nơi cư ngụ của những đạo sĩ du phương. Kolita trông thấy bạn mình tiến lại gần và thầm nghĩ: "Hôm nay nét mặt của bạn ta hoàn toàn thay đổi. Chắc hẳn anh ấy đã tìm ra con đường thoát tử?". Và khi ông hỏi bạn về chuyện ấy, Upatissa đáp: - Vâng, thưa bạn. Tôi đã tìm ra đạo bất tử. Rồi ông đọc thuộc lòng cho bạn mình nghe kệ ngôn mà ông đã nghe. Khi kệ ngôn chấm dứt, Kolita liền đắc quả Nhập Lưu (Tu Đà Hườn) và liền hỏi: - Bạn thân mến! Hiện đấng Thượng Sư ngụ ở đâu? - Thầy của tôi, đức Trưởng lão Assàji đã cho tôi biết rằng đấng Thượng Sư đang ở tại Trúc Lâm tịnh xá. Kolita liền bảo: - Này Upatissa vậy chúng ta hãy đến ra mắt Ngài đi. Nhưng Upatissa là người luôn luôn kính trọng thầy, nên ông ta bèn đề nghị với bạn rằng: - Này bạn! Trước tiên chúng ta hãy đến thầy cũ của chúng ta đã, Ngài du sĩ Sanjaya, và bảo cho ông ấy biết rằng chúng mình vừa tìm được đạo bất tử. Nếu ông ta đón nhận, ông ta sẽ đạt được con đường thật. Dù cho ông ta không tin đi nữa có lẽ ông cũng được ảnh hưởng do lòng tin tưởng mãnh liệt của chúng ta, rồi sẽ cùng đi yết kiến đấng Thượng Sư để nghe giáo lý của Ngài. Biết đâu ông ta cũng gặt hái được đạo quả giải thoát? Do đó cả hai cùng đến gặp đạo sĩ Sanjaya và báo tin rằng: - Thưa thầy! Thầy đang làm gì đó? Một đấng Giác Ngộ đã xuất hiện trên thế gian này. Giáo lý của Ngài đã khai sáng nhân sinh và được thực hành chân chánh trong cộng đồng do những Tăng sĩ đệ tử của Ngài. Vậy Ngài hãy cùng đi với chúng tôi đến ra mắt đấng Thượng Sư đã tròn đủ Thập Độ. Đạo sĩ Sanjaya ngạc nhiên la lên rằng: "Ta chẳng hiểu các ông muốn nói cái gì?". Rồi ông từ chối không đi theo họ, mà còn khoe khoang với họ về danh dự và tiếng tăm của ông ta để hy vọng thuyết phục hai học trò mình ở lại hưởng thụ và chỉ tin tưởng nơi danh vị của ông thầy cũ. Nhưng họ đã quyết: - Thầy ạ. Chúng tôi đã dứt khoát, không còn bất cứ ý muốn nào ở lại đây. Thầy ơi! Thầy chỉ cần quyết định rằng đi theo chúng tôi là nên hay không mà thôi? Thất bại trong những lời thuyết phục, Sanjaya nghĩ: "Nếu họ hiểu nhiều như vậy, họ sẽ chẳng nghe theo những gì ta bảo. Tốt hơn hãy để họ ra đi càng sớm càng tốt, kẻo không những đệ tử khác hay biết sẽ có hại". Tư tưởng xong ông ta liền đáp: "Thôi các ông hãy đi đi, còn ta không thể đi được". - Thưa thầy, tại sao không? - Vì ta là một vị thầy có nhiều môn đệ. Nếu ta đảo lộn hệ thống môn đồ như thế thì chẳng khác nào một bệ nước vĩ đại đem đổi lấy một bình chứa nhỏ nhoi. Bây giờ ta không thể nào trở lại cuộc sống như là một đệ tử được. Họ lại khẩn cầu: - Xin thầy đừng nghĩ như thế thầy ạ! - Nhưng ta đã quyết định rồi, các ông hãy đi đi, ta không thể đi được. - Thầy ơi! Khi đức Phật xuất hiện trên đời, bao nhiêu người từ hạ dân đến quyền quí cao sang đều tôn thờ Ngài, mang cả những bảo vật đến dâng cúng kia mà. Danh vị của thầy làm sao so sánh với đấng Toàn Giác. Cho nên, khi chúng tôi đã theo Phật rồi, những gì sẽ xảy đến cho thầy, chắc thầy đoán biết chứ? Để đáp lại câu đó, đạo sĩ Sanjaya trả lời: - Này các đệ tử, các ông suy nghĩ gì kỳ lạ vậy? Trên đời này người ngu muội nhiều hay người trí thức nhiều? - Người ngu muội nhiều, thưa thầy. Song người trí thức thì ít lắm. - Nếu vậy thì này các ông. Chắc các ông cũng biết rằng những người trí thức sẽ đến với đức Phật Cồ Đàm (Gotama), còn những kẻ ngu muội sẽ về với ta, chỉ những người ngu muội thôi. Bây giờ các ông có thể đi đi. Nhưng ta chẳng bao giờ đi theo các ông cả. Vì vậy, đôi bạn Upatissa và Kolita, khi rời thầy đã nói: - Thưa thầy. Rồi đây thầy sẽ hối hận vì những tư tưởng sai lầm của thầy. Sau khi họ đi rồi, có một sự rạn nứt trong những môn đồ Sanjaya và tu viện của ông ta đã trở nên gần như trống trải. Thấy tư thất của mình vắng lặng các môn đồ, đạo sĩ Sanjaya đã uất ức đến hộc máu tươi. Năm trăm đệ tử của ông đã rời bỏ theo Upatissa và Kolita. Trong số đó chỉ có hai trăm năm mươi người trở lại với đạo sĩ du phương Sanjaya. Với số còn lại là hai trăm năm mươi người, cộng thêm những người tùy tùng xưa kia, đôi bạn Upatissa và Kolita bèn nhắm Trúc Lâm tịnh xá trực chỉ. Lúc đó đức Thượng Sư đã an tọa trong hàng, Tứ chúng (đó là Tỳ-khưu, Tỳ-khưu Ni, Thiện nam, Tín nữ) và đang thuyết pháp. Khi đức Thế Tôn thấy hai người tiến đến, Ngài bèn công bố với chư Tăng và Phật tử rằng: - Đôi bạn Upatissa và Kolita đang đến đây sẽ là những đệ tử ưu tú của Như Lai. Thực là một đôi bạn phước duyên song toàn. Khi đến gần, hai người ấy liền trịnh trọng đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi lại một bên. An tọa xong, họ bạch với đức Phật rằng: - Bạch Ngài! Xin Ngài cho chúng con được thọ giáo để được đi trên con đường tấn hóa và xin Ngài dắt dẫn chúng con trên con đường giải thoát tối thượng. Đức Thế Tôn thuyết: "Này các Tỳ-khưu! Các vị hãy đến đây! Khi Pháp bảo đã được thuyết giảng, hấp thụ vào tâm rồi thì đời sống của kiếp người là những ngày tháng trong sạch để chấm dứt cả phiền não". Phật thuyết chỉ có thế và Ngài xem như rất đầy đủ cho những hàng xuất gia cao thượng. Sau đó đức Bổn Sư tiếp tục bài pháp tùy theo căn cơ của mỗi cá nhân để đưa họ vào một sự suy gẫm. Trường hợp đặc biệt của hai thủ lãnh môn đồ vừa đến, pháp của Ngài đã làm cho họ đạt tới A-la-hán quả. Nhưng hai vị ấy chưa hoàn toàn ngộ được ba đạo Thánh tâm cao thượng hơn. Lý do là vì tính chất, vĩ đại của trí tuệ hòa hợp với sự hoàn toàn của một Đại đệ tử mà họ còn phải đạt tới. (Sàvakapàramì Ĩàna). Từ khi trở thành đệ tử của đức Phật, Upatissa có tên là Sàrìputta (Xá Lợi Phất) và Kolita được gọi là Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên). Sau đó Đại Đức Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) đến ngụ tại một làng trong xứ Magadha (Ma Kiệt Đà), gọi là làng Kallavàla. Ở đó Ngài phải nhờ vào vật bố thí của thập phương bá tánh. Vào ngày thứ bảy sau khi xuất gia, khi Ngài đang thực hành phận sự của bậc Sa-môn (Thiền định), thì sự lười biếng và hôn trầm kéo đến Ngài. Nhưng nhờ pháp câu thúc của đức Phật Ngài đã đẩy lui được sự lười biếng (điều này căn cứ vào một bài pháp trong kinh Anguttara Nikàya VII N. 58), và sau đó khi nghe đức Thượng Sư dẫn giải cho Ngài về đề mục Thiền Định Sơ cấp (Dhàtu Kammatthàna), Ngài đã hoàn thành công việc, đạt tới ba đạo tâm cao hơn và chứng được sự hoàn toàn tối thượng của một Đại đệ tử (Sàvaka Pàramì). Trong lúc đó thì Đại Đức Sàrìputta (Xá Lợi Phất) tiếp tục sống bên cạnh đấng Bổn Sư trong một cái hang gọi là Sakarakhatalena (Động Heo), và thường đi vào thành Ràjagaha (Vương Xá) khất thực. Nửa tháng sau lễ xuất gia của Ngài, đức Thế Tôn đã thuyết một bài pháp về sự nhận thức của tâm (Kinh Dighanakha Sutta, Majjhima Nikàya N.74.) cho người cháu của Đại Đức Sàrìputta tên là Dìghanakha (Một đạo sĩ du phương) nghe. Đại Đức Sàrìputta đứng phía sau đức Bổn Sư để hầu. Trong khi theo dõi những ý tưởng liên tục của bài pháp, Đại Đức Sàrìputta (Xá Lợi Phất) đã nhận thấy rằng đó chính là sự chia sớt những món ăn tinh thần quí báu mà đức Thượng Sư thân hành trao lại cho người đời. Nhờ hiểu biết như vậy mà Đại Đức Sàrìputta đã chứng được trí thức tối thượng tròn đủ của một Đại đệ tử, và cũng đắc được đạo quả A-la-hán với bốn Tuệ phân biệt (Tứ Phân Biệt Tuệ) (theo chú giải trong Anguttara Nikàya phần thứ 4, số 172). Còn người cháu của Ngài khi dứt bài pháp đã đắc quả nhập lưu (Tu Đà Hườn) (căn cứ theo Thera Gàthà do Đại Đức Sàrìputta thuyết, các kệ ngôn số 995-996). Nếu có người hỏi: "Đại Đức Sàrìputta không có một trí tuệ vĩ đại sao? Và nếu có tại sao Ngài lại đạt được sự hoàn toàn của một Đại đệ tử sau Đại Đức Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) Câu trả lời là chính vì sự vĩ đại đó mà thời gian phải cần thiết để cho nó được chuẩn bị chín muồi. Chẳng hạn như một thường dân muốn đi đâu, họ liền đặt chân ra đường. Nhưng trường hợp những hạng vua chúa thì lắm sự chuẩn bị chu đáo lại cần thiết. Chẳng hạn như thắng xe tứ mã, bố trí quan quân v.v... Trường hợp nói trên cũng tương tự như vậy. Cùng ngày hôm ấy, khi bóng chiều đã đổ dài trên ngàn cây nội cỏ, đức Thượng Sư gọi tất cả môn đồ của Ngài tựu hợp và tỏ lời nâng nhị vị A-la-hán Sàrìputta (Xá Lợi Phất) và Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) lên hàng Huynh trưởng hướng dẫn Tăng chúng. Trong dịp này, có một số Tăng sĩ không hài lòng và bàn tính với nhau: "Đức Bổn Sư nên cho phẩm vị Trưởng lão đến những vị xuất gia đầu tiên mới phải, nghĩa là nhóm năm đệ tử đầu (năm thầy Kiều Trần Như). Nếu không thì hoặc cho nhóm hai trăm năm mươi Tỳ-khưu dẫn đầu do Ngài Yasa hay cho ba mươi vị trong nhóm Bhadda Vaggiya (Thắng Dục Sĩ), còn không thì Ngài phải cho đến ba Huynh đệ Kassapa chứ? Nhưng tại sao Ngài không kể đến các vị đại Trưởng lão này, mà đem phẩm vị đó ban đến những người mới xuất gia sau cùng". Đức Bổn Sư dọ hỏi về đề tài bàn tán của họ, và khi được biết Ngài bèn dạy: - Như Lai không thiên vị mà chỉ cho phẩm vị ấy theo hạnh nguyện của họ. Tỷ như Kondanna (chỉ nhóm Kiều Trần Như), trong kiếp trước họ đã bố thí vật thực chín lần giữa mùa gặt đến tiền thân của Như Lai. Họ không có nguyện vọng trở thành Đại đệ tử, họ chỉ có nguyện vọng được bước vào giáo lý của Như Lai đầu tiên, cùng chung được phẩm đạo cao nhất là A-la-hán. Điều đó giờ đây đã đúng sự thực. Nhưng Sàrìputta và Màha Moggallàna, trong vô lượng quá khứ vào thuở đức Phật Anomadassi, họ sinh làm một thanh niên Bà-la-môn tên Sàrada và một người điền chủ tên Sirivaddhaka. Họ đã có nguyện vọng trở thành những Đại đệ tử khi gặp đức Phật trong kiếp sau cùng. Này chư Tỳ-khưu! Hãy nghe đây! Phẩm vị mà Như Lai cho họ chính là nguyện vọng của họ đấy. Chư Như Lai không bao giờ thiên vị. Phần sưu tập về địa vị của Đại Đức Sàrìputta này được lấy ở đoạn chú giải trong Kinh Anguttara Nikàya, bộ Etavagga và một số trích từ những bài kệ song đối trong chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapàda Sutta). Trong đó, một số những đặc điểm chính yếu về vai trò của Đại Đức Sàrìputta được hoàn toàn ghi nhận. Ngoài ra, đức năng trong tình bạn sâu xa giữa Ngài với Đại Đức Mahà Moggallàna cũng được mô tả, không những khi Ngài còn ngoài đời, một thanh niên được giáo dưỡng trong nhung lụa, mà cả đến lúc xuất gia sống đời sống vô gia đình. Rồi đạt được Thánh quả. Đức năng ấy vẫn luôn luôn bền bỉ trong sạch như ánh sáng mặt trời. Trong khi vừa thấm nhuần được giáo lý giải thoát và trước khi tiến xa hơn trên con đường thanh tịnh, ý tưởng đầu tiên của Ngài là nghĩ đến bạn, ông Kolita cùng lời thề mà Ngài đã nguyện. Đại Đức Sàrìputta có một trí tuệ vô song và tiềm tàng do tu tập trong nhiều kiếp qua. Trí tuệ ấy trong kiếp này là lúc đã chín muồi, chỉ chờ dịp để phát hiện. Do đó nó đã biểu lộ tức khắc giúp Ngài nắm được ngay yếu chất Phật giáo lúc chỉ được nghe vài câu pháp của Trưởng lão Assàji. Và hi hữu hơn nữa là Ngài đã kết hợp được sức thông minh ấy với cá tính khiêm tốn, dịu dàng, tự nhiên và biểu lộ bằng sự hiểu biết khiến cho bất cứ ai cũng kính phục. Đối với đạo chủ Sanjaya, dù biết rằng ông ấy vô cùng lầm lạc, nhưng Đại Đức Sàrìputta vẫn giữ một thái độ tôn kính như xưa. Bởi vậy, ta không thể thắc mắc gì khi biết rằng suốt đời sống của Ngài, Ngài luôn luôn tỏ rõ sự kính trọng đối với Trưởng lão Assàji vì chính nhờ vị này mà Ngài đã được bước vào giáo lý của đức Phật. Như ta đã biết, theo chú giải kinh Vìva Sutta (Sutta Nipàta), và cũng trong Chú giải cuốn số 392 trong Kinh Pháp Cú rằng: Bất cứ lúc nào, khi Đại Đức Sàrìputta cùng sống trong một tịnh xá với Trưởng lão Assàji, Ngài luôn luôn đến nghiêng mình đảnh lễ trước Trưởng lão ngay sau khi đã lễ bái đức Thế Tôn. Ngài làm như thế, ngoài cái nghĩa kính trọng còn nghĩ rằng: "Vị Đại Đức này là thầy đầu tiên của ta. Nhờ Ngài mà ta tìm thấy và hiểu được tuyệt pháp Ba la mật của Phật". Và khi đức Trưởng lão Assàji ngụ trong một nơi nào khác. Đại Đức Sàrìputta thường hướng về nơi Trưởng lão đang ở để tỏ lòng tôn thờ bằng cách chắp tay nghiêng mình lễ bái khắp các phương. Những điều này đã dẫn đến một sự hiểu lầm. Mỗi khi trông thấy như thế, chư vị Tỳ-khưu thường bảo với nhau rằng: "Đã là đệ tử Phật mà Ngài Sàrìputta còn lễ bái những phương trời. Ngay cả bây giờ mà ông còn chưa bỏ được những tư kiến tôn sùng những trời Phạm Thiên ư?". Nghe được những lời chỉ trách này, đức Thế Tôn bèn dạy rằng: - Này chư Tỳ-khưu. Không phải như thế đâu. Sàrìputta không phải lễ bái các phương trời đâu. Ông ta chỉ lễ bái đến ai mà nhờ đó ông ta tìm thấy Pháp bảo của Như Lai, vì ông ta xem kẻ ấy là thầy của mình và Sàrìputta là người rất biết ơn Thầy Tổ. Sau đó đức Thế Tôn liền thuyết cho chư Tăng đang họp nhau bàn tán nghe về kinh Nàva (Nà vasutta) Phật dạy: - Được về trời phải kính trọng người chỉ rành Thiên đạo. Vậy người đời sao không lễ bái ông thầy đem Pháp bảo đến cho mình? Một thí dụ khác nói về sự biết ơn của Đại Đức Sàrìputta đuợc ghi trong câu chuyện Ràdha Thera (Đại Đức Ràdha). Chú giải về câu kệ thứ 76 trong Pháp Cú (Dhammapàda) thuật rằng: Tại một tịnh xá trong thành Sàvatthì (Xá Vệ), có một người Bà-la-môn nghèo. Ông ta chăm lo những công việc lặt vặt như làm cỏ, quét dọn v.v... Và chư Tăng đã bố thí vật thực cho ông để sống. Tuy nhiên họ không muốn cho ông xuất gia. Ngày kia, đức Thế Tôn khi quan sát căn trí của người đời, đã thấy rằng ông Bà-la-môn ấy có duyên đắc A-la-hán. Ngài bèn dọ hỏi các vị Tỳ-khưu đang tụ họp bàn về ông ta và hỏi họ xem có ai còn nhớ là đã nhận sự giúp đỡ nào của ông Bà-la-môn nghèo kia không. Đại Đức Sàrìputta nhận rằng Ngài có nhớ một lần khi Ngài đang khất thực trong thành Ràjagaha (Vương Xá) ông Bà-la-môn nghèo cực này đã cho Ngài một vá cơm đầy mà ông vừa kiếm được để sống. Đức Bổn Sư bèn bảo Đại Đức Sàrìputta làm lễ xuất gia cho ông, và từ đó ông được gọi tên là Ràdha. Sau ấy Đại Đức bắt đầu hướng dẫn và ông Ràdha luôn luôn vui vẻ ghi nhận mọi điều dạy dỗ dù khó nhọc đến đâu cũng không chút buồn giận. Cứ thế sau một thời gian thực hành theo lời giáo huấn của thầy, ông Ràdha đã trở nên thanh tịnh, rồi chẳng bao lâu nữa ông đã đắc quả A-la-hán. Lần này chư Tỳ-khưu trở lại bàn tán về hạnh kiểm và năng lực chỉ đạo của Đại Đức Sàrìputta. Họ bảo rằng: - Khi muốn nhận học trò hay khuyên học trò làm như thế nào thì mình cũng phải làm được như thế ấy. Để đánh tan dư luận về vấn đề này, đức Phật nói: - Không phải như thế đâu, này chư Tỳ-khưu. Sở dĩ ông Sàrìputta đem những pháp khó hành dạy học trò như vậy là vì trước đây Sàrìputta đã thọ ơn do một hành động cao thượng của người kia đã làm đến ông ta. Và để bổ túc vào câu chuyện ấy, đức Bổn Sư đã kể lại một sự tích trong Alìnacitta Jàtaka (Túc Sanh truyện Alìnacitta). Đó là câu chuyện của một con voi biết ơn.

TRÍ DUYÊN VIÊN MÃN TÌNH BẰNG HỮU

Nếu Đại Đức Sàrìputta nổi tiếng về đức tính biết ơn sâu dày, thì tình bằng hữu của Ngài đậm đà cũng không kém. Với Đại Đức Mahà Moggallàna, một người bạn cũng là một đồng chí trong thuở thiếu thời của Ngài. Ngài luôn luôn giữ chặt tình bằng hữu. Và những bằng chứng khác nữa là sau khi xuất gia, họ đã tìm đến nhau để đàm luận về Pháp bảo rất nhiều. Nhờ thế mà có lần khi Đại Đức Sàrìputta còn đang tiến triển trên con đường đạt đến đạo quả, sự luận pháp đã giúp cho Ngài nhiều tia sáng hữu dụng đặc biệt. Điều đó đã được ghi lại trong kinh Anguttara Nikàya Catukka Nipàta số 167. Đoạn ấy thuật rằng: Một lần nọ, Đại Đức Mahà Moggallàna đến gặp đạo huynh của Ngài là Sàrìputta và nói: "Này sư huynh Sàrìputta. Có bốn con đường tiến hóa là: 1/ Tiến hóa khó khăn mà chậm chạp thì trực tiếp hiểu biết. 2/ Tiến hóa khó khăn mà nhanh chóng cũng được trực tiếp hiểu biết. 3/ Tiến hóa dễ dàng mà chậm chạp thì được hiểu biết trực tiếp. 4/ Tiến hóa dễ dàng mà nhanh chóng thì cũng được hiểu biết trực tiếp. Thế thì cái nào trong bốn cách tiến hóa này đã cho tâm trí của đạo huynh thoát khỏi những điều xấu xa không còn dư sót?". - Này đệ Mahà Moggallàna. Chỉ có cách thứ tư là "Tiến hóa dễ dàng nhanh chóng và hiểu biết trực tiếp". Cắt nghĩa như đoạn trên chính là dập tắt các nhơ bẩn trong tâm rồi, chuẩn bị cho sự chấp nhận hay sáng suốt, đó là một việc làm không khó khăn lắm (Đây là theo căn duyên của những ai có trí tuệ phi thường như Đại Đức Sàrìputta. Theo kinh điển Phật giáo thì Đại Đức Sàrìputta có trí tuệ bậc nhất trong các đệ tử Phật.) nên được gọi là Dễ (Sukha Patipadà), ngược lại tức là Khó hay Khổ sở (Dukkha Patipadà). Nếu sau khi dập tắt hết các nhơ bẩn nơi nội tâm rồi, con đường hành đạo để tiến tới giác ngộ dù khó khăn đến đâu với Sa-môn loại này cũng trở thành dễ dàng và nhanh chóng. Do đó họ vẫn có thể chứng đạt một cách thiết thực và vững chắc. Ở đây sự hiểu biết trực tiếp (hay còn gọi là trạng thái nối liền với đạo quả) được gọi là nhanh chóng (Khippabhinnà) còn ngược lại là chậm chạp (Dandàbhinnà). Trong kỳ luận đạo này, những câu nói của Đại Đức Sàrìputta ám chỉ đến sự đạt được quả vị A-la-hán của Ngài. Tuy nhiên khi nói đến ba đạo Thánh đầu tiên, vấn đề cắt nghĩa còn tùy theo các chú giải trong kinh điển. Nhất là để luận về câu "Tiến hóa dễ dàng, chậm chạp thì được hiểu biết trực tiếp". Nhờ những cách đàm luận như thế, đôi bạn Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã hiểu biết nhau và trao đổi cho nhau những kinh nghĩa, những nhận định về Pháp bảo. Họ cũng thường lui tới hội họp để tham dự những vấn đề bàn cãi giữa Tăng chúng. Có một dịp khác, nhằm khi họ hợp tác với nhau trong việc thức tỉnh những vị Tỳ-khưu đã lầm lạc nghe theo lời xúi dại của ông Devadatta (Đề Bà Đạt Đa). Thái độ rất ý nghĩa của Đại Đức Sàrìputta là ngẫu nhiên khen ngợi một cách nhân từ những thật quả của ông Devadatta đã đạt được, khiến ông quá tự đắc với những thành công ấy mà lâm vào tình trạng chia rẽ Tăng chúng, gây một biến cố làm suy đồi Phật giáo ngay khi đức Thế Tôn còn tại tiền. Kết quả những Tỳ-khưu lầm lạc đã được tỉnh ngộ. Căn cứ theo Cìlavagga, Sangha Bhedaka Khandhaka, Sanghabheda Kathà thì có một đoạn thuật lại rằng: "Khi ấy đức Phật bảo Đại Đức Sàrìputta vào công bố trong thành Ràjagaha là tất cả những hành vi và ngôn ngữ của ông Devadatta sẽ không còn liên hệ vì không được đức Phật, đức Pháp và đức Tăng nhìn nhận nữa..." Đại Đức Sàrìputta nói: - Trước đây đệ tử đã từng tán dương vài khả năng tu tập của ông Devadatta bây giờ đệ tử tuyên bố ngược lại sợ rằng sẽ gây hoang mang trong dân chúng chăng? Đức Phật bèn dạy: - "Này Sàrìputta. Khi ông ca ngợi khả năng của ông Devadatta, ông có nói một cách thực thà không?". - Vâng. Bạch đức Thế Tôn. - Thế thì bây giờ, này Sàrìputta. Ông cũng chỉ nói một sự thực về Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) mà thôi. Do đó, sau khi được Tăng chúng công cử Đại Đức Sàrìputta cùng vời một số Tỳ-khưu đã vào thành Ràjagaha (Vương Xá) truyền rao như lời Phật dạy. Ông Devadatta khi đó đã công khai chia rẽ Tăng chúng bằng cách tuyên bố là ông có thể hướng dẫn mọi hoạt động của chư Tăng một cách riêng rẽ. Ông bèn dắt năm trăm vị Tỳ-khưu trẻ tuổi lên núi Linh Thứu (Đỉnh núi có nhiều giống kênh kênh chuyên ăn xác người chết ở) lập đoàn thể riêng. Để gọi họ trở về, đức Phật đã sai hai Đại Đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna đến đó. Trong khi ông Devadatta đang an nghỉ thì hai vị Đại đệ tử Phật này liền giảng giải cho các vị Tỳ-khưu lầm lạc ấy nghe về Pháp bảo khiến họ đắc quả Nhập Lưu (Tu Đà Hườn) và đồng kéo nhau về với đức Bổn Sư. Có một lần khác, khi Đại Đức Sàrìputta và Đại Đức Mahà Moggallàna đang cùng hợp tác hướng dẫn Tăng lữ thì khi đó có một số Tỳ-khưu do Đại Đức Assàji làm thầy (Không phải Trưởng lão Assàji đã nói trên) và Đại Đức Punabbasu đang ngụ tại Kìtagiri bỗng làm những điều đáng chê trách, mặc dù đã được các hàng huynh đệ khả kính khuyên nhủ nhiều lần, những vị Tỳ-khưu này vẫn không sửa đổi tư cách. Do đó hai Đại Đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna lại được phái đi để phân xử. Hai vị tôn túc này đã phải dùng đức kiên nhẫn vô biên mới giải quyết được vấn đề. Kết quả những vị Tỳ-khưu phạm lỗi vào chịu nghiêm phạt đúng theo giới luật. Nhất là họ phải sám hối với nhau về tội công kích cá nhân lẫn công kích Tăng Già. (Theo Cùlavagga Kammakkhadhaka Pabbàjaniya Kamma Pàràjika Pàli Sanghàdisesa Kanda Kuladùsaka Sikkhàpada). Thế nhưng chẳng có gì làm chia rẽ tình bằng hữu của Đại Đức Sàrìputta được. Và căn cứ theo chú giải của bộ kinh Mahàgosinga Sutta thì cũng có một sợi dây cảm mến sâu đậm giữa Ngài và Đại Đức Ànanda, người luôn luôn hầu cận đức Phật. Sở dĩ như thế là vì Đại Đức Sàrìputta nghĩ rằng "Phận sự chăm nom Bổn Sư là việc lẽ ra chính mình phải lo mỗi ngày. Còn sự cảm mến của Đại Đức Ànanda đối với Đại Đức Sàrìputta là bởi Đại Đức được đức Phật tuyên bố Ngài là một đệ tử ưu tú. Khi Đại Đức Ànanda (A Nan) làm lễ xuất gia bậc thấp (Sa Di) cho một người học trò trẻ. Ngài đã dẫn ông ấy đến Đại Đức Sàrìputta để thọ giới bậc cao (Tỳ-khưu). Đại Đức Sàrìputta đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu của Đại Đức Ànanda... Cứ như thế cả hai đã có tới năm trăm học trò chung. Bất cứ khi nào Đại Đức Ànanda được y phục tốt hay những vật dụng tốt khác, Ngài thường đem biếu cho Đại Đức Sàrìputta, và ngược lại khi Đại Đức Sàrìputta có bất cứ những đồ dâng hiến đặc biệt nào phát sinh đến Ngài, Ngài cũng đem biếu lại Đại Đức Ànanda. Một lần nọ, Đại Đức Ànanda được một bộ y rất quí do một người Bà-la-môn dâng cúng. Sau khi được đức Phật cho phép Ngài đã giữ bộ y đó đến mười ngày, cho Đại Đức Sàrìputta trở về vì Ngài đang đi vắng. Trong Tiểu chú giải còn nói rằng: "Các học giả Phật giáo sau này biết đâu sẽ chẳng bình phẩm: - Đại Đức Ànanda vì chưa đắc đạo quả A-la-hán nên cảm tình cá nhân vẫn còn nhưng Đại Đức Sàrìputta là một vị A-la-hán tại sao cũng có những hành động tương tự?". Và Tiểu chú giải đã phân tích rõ: "Sự kính mến của Đại Đức Sàrìputta nào phải giống như một tình cảm ràng buộc của người đời mà là một lòng thương do đức hạnh của Đại Đức Ànanda. Trong Phật giáo gọi là Đức cảm (Guna bhatti)". Có một lần đức Phật dạy Đại Đức Ànanda: "Này Ànanda! Trong hàng tứ chúng có rất nhiều người cảm mến Đại Đức Sàrìputta. Còn ông, ông có bằng lòng vị Sa-môn ấy không?". Đại Đức Ànanda cung kính trả lời: - "Bạch đức Thế Tôn! Dường như tất cả mọi người đều bằng lòng Đại Đức Sàrìputta, chỉ trừ những kẻ còn ấu trĩ, hư hỏng, ngu muội hoặc ở trong một tinh thần bại hoại. Bạch đức Thế Tôn! Đại Đức Sàrìputta là một vị toàn học, có một trí tuệ vô biên, bạch đức Thế Tôn! Trí tuệ ấy còn quảng bác, trong sáng, nhanh nhẹn, sắc bén và tiềm ẩn chẳng khác nào ánh sáng phản chiếu ra từ một tảng pha lê. Đại Đức Sàrìputta là một người ít đòi hỏi, tri túc, vắng lặng, không thích đông đảo và giàu nghị lực. Ngài còn có tài biện luận, có nghệ thuật nghe để thanh lọc và thu thập. Thật là một bậc luôn luôn chỉ lo tự kiểm soát để loại trừ những gì là tội lỗi (căn cứ theo kinh Devaputta. S. Susimasutta). Trong kinh Thera Gàthà (N. V-1034) chúng ta thấy Đại Đức Ànanda diễn tả sự cảm mến của Ngài khi Đại đức Sàrìputta lên đường về quê để tịch diệt. Ngài kêu lên: - Khi người bạn cao thượng Sàrìputta đã ra đi cuộc đời này đối với tôi như chìm vào đêm tối. Ngài cứ nhắc đi nhắc lại như thế phía sau: Đoàn người tiễn biệt mà chân không buồn bước, đến nỗi họ và ngay cả Đại Đức Sàrìputta đã bỏ Ngài một khoảng rất xa. Sự mến tiếc đã làm cho những người xung quanh hầu như chỉ biết có Ngài. Nét ưu buồn của Đại Đức Ànanda khi Đại Đức Sàrìputta lên đường nhập diệt cũng được diễn tả rất cảm động trong kinh Cunda Sutta. Đại Đức Sàrìputta là một người bạn thật, có ngôn ngữ rất trong sáng và đầy đủ. Ngài thông hiểu nhiều phương pháp để khai triển những cái đẹp, những cái cao thượng ở những người xung quanh. Và trong khi làm như thế Ngài đã không chần chờ, đôi khi còn tích cực một cách thẳng thắn xây dựng bất cứ ai có dịp thân cận với mình. Chính đức Bổn Sư cũng nói: "Chỉ có những người như vậy mới dám vạch rõ những lỗi lầm của bạn". Nhờ vậy mà Ngài Sàrìputta đã từng giúp Đại Đức Anuruddha (A Nậu Lâu Đà) bẻ gãy hết những chướng ngại sau cùng để tiến tới phẩm vị A-la-hán. Câu chuyện này được ghi lại trong kinh Tikanipàta số 128 thuộc bộ Anguttara Nikàya. Kinh ấy thuật như sau: "Có một lần nọ, Đại Đức Anuruddha đến gặp Đại Đức Sàrìputta. Sau khi chào hỏi và an tọa hợp lễ rồi, Ngài bèn hỏi Đại Đức Sàrìputta: - Này đạo huynh Sàrìputta. Với đôi mắt tinh tường nhờ thanh tịnh, với một sự nhận xét không còn phàm tình, tôi có thể nhìn thấy giòng đời muôn mặt. Sự vững chắc và nghị lực của tôi thật là bất tuyệt. Tôi lúc nào cũng ghi nhớ và không bị nhầm lẫn. Thể xác yên tịnh và không bị xáo trộn. Tâm trí của tôi được tập trung vào một điểm (đề mục). Thế mà thần thức tôi dường như không được thoát khỏi những nguyên nhân bại hoại, nhất là không được tự do lạc trụ, ngược lại còn bị vướng mắc. Đại Đức Sàrìputta trả lời: - "Này Ngài Anuruddha. Chính vì Ngài đã nghĩ như vậy về đôi mắt tinh tường, về sự nhận xét thoát tục, về trình độ vững chắc, về trạng thái không nhầm lẫn của mình v.v... mà Ngài tự động dính mắc. Đó là pháp ngã mạn còn ẩn phá trong Ngài. Rồi Ngài càng biết rằng mình đang có những khả năng ấy mà vẫn không được tự tại là Ngài càng thắc mắc, và còn thắc mắc là không có tiến hóa. Sự tự phụ, một hình tướng của ngã mạn (Màna) và hoạt ý thắc mắc (Uddhacca) là hai trong ba chiếc xiềng (Samyojana) hằng đeo dính theo hành giả cho đến phẩm A-la-hán mới bị bẻ gãy. - Này Ngài Anuruddha. Thực ra, đó là một điều tốt đẹp nếu Ngài từ bỏ những tư tưởng tự phụ này, ấy chính là Ngài đang vững tiến trên con đường giải thoát. Sau đó Đại Đức Anuruddha đã xa lìa ba trạng thái chướng ngại ấy, chẳng màng nghĩ đến chúng nữa và Ngài đã thấy được yếu tố bất tử. Từ ấy, Đại Đức Anuruddha tìm sống riêng rẽ tách rời khỏi mọi sinh hoạt bận rộn, chăm chú hăng hái với một tư tưởng quyết định: "Trước khi đạt được đời sống thực sự này, Ngài phải hiểu và kinh nghiệm được nó. Đối với Ngài mục tiêu cao nhất là kiếp sống cao thượng đó". Là thể hiện đầy đủ ý nghĩa: "Những đứa con trọn đời đi khỏi gia đình để góp mặt vào một đại gia đình". Ngài lại còn biết rằng: "Còn lười biếng là còn tái sinh. Bất tử là phải vĩnh cửu. Giải thoát là không còn dính mắc vào bất cứ cái gì nằm trong vòng sinh diệt này". Vì thế Đại Đức Anuruddha đã trở thành một trong những vị Thánh A-la-hán. Đại Đức Sàrìputta đã gây quảng kiến cho đồng đạo và đã được khám phá ra nhiều thiện pháp mới lạ: Mỗi người có một bẩm tính trong khả năng tiến hóa. Những bẩm tính ấy có khi giống nhau, có khi khác nhau, có khi biến thành thiện pháp, có khi biến thành ác pháp. Theo kinh Mahà Gosinga Sutta thuộc Majjhima Nikàya số 32 thì một buổi chiều kia, khi các Trưởng lão Mahà Moggallàna, Mahà Kassapa, Ngài Anuruddha, Ngài Revata và Ngài Ànanda đồng đến Đại Đức Sàrìputta để nghe pháp. Đại Đức Sàrìputta đã tiếp họ và nói: - Thật hân hạnh cho rừng cây Sàlagosinga này. Đêm nay có trăng. Tất cả những cây Sàla trổ đầy hoa và tỏa hương thơm như mùi hương từ cung trời bay xuống, thoang thoảng đâu đây. Này đạo huynh Ànanda! Theo Ngài thì vị nào sẽ làm cho rừng Sàla Gosinga này rực rỡ hơn lên? Cùng câu hỏi đó, Ngài cũng đem hỏi những vị kia, và mỗi vị đã trả lời khác nhau tùy theo cá tính của họ. Sau cùng Đại Đức Sàrìputta nói lên câu trả lời của riêng Ngài như sau: - Chỉ có vị Tỳ-khưu nào đã kiểm soát được tư tưởng mình, không còn lệ thuộc dưới sự sai khiến của phóng tâm nữa. Bất cứ ý nghĩ nào có tính cách lâu bền và đạt được đạo quả mà Ngài hằng ao ước để nghiền ngẫm về buổi sáng, Ngài có thể suy gẫm đúng trong khoảng thời gian ấy. Bất cứ kiến thức nào có tính chất lâu bền hay đạt được quả vị mà Ngài hằng mong muốn để nuôi dưỡng chơn tâm vào buổi trưa Ngài cũng có thể gìn giữ được vào lúc đó. Và bất cứ nhận thức nào bền vững hữu đạt mà Ngài ưa thích để nhiếp giữ đề mục vào buổi tối, Ngài cũng có thể làm được trong thời gian đó. Vì thế như một chiếc tủ đựng quần áo, đựng đồ trang sức của một ông vua hay một quan đại thần, dù có chứa đầy những loại phục sức nhiều màu sắc đi nữa, khi được sử dụng nhà vua hay một quan công thần sống có thứ tự cũng ăn mặc hợp thời, hợp cách theo từng mỗi khung cảnh, mỗi thời gian của nó. Những hạng vua chúa hay vương thần hằng giữ đúng phong ngoại của mình như thế thường được mọi người chiêm ngưỡng và có mãi vẻ uy nghi. Với một Sa-môn, khi đã kiểm soát được tâm tính rồi, không còn bị lệ thuộc dưới sự thống trị của ái dục nữa, thì mọi hành vi, cử chỉ cũng điều độ như thế. Nghĩa là tâm nào phải bền vững, tâm nào tự phát sinh mọi biến chuyển được nhiếp nhận một cách thuần thục, thoải mái, không dư sót, đúng thời điểm chắc chắn. - Này đạo huynh Moggallàna. Một Sa-môn như thế thì chỉ có Ngài, vị có thể ban cho khu rừng Sàla Gosinga này sự trong sáng đó. Sau đó các Ngài cùng đến đức Phật bạch lại mọi việc. Và đức Thế Tôn đã tán dương đồng ý hết thảy những lời đàm luận của họ. Ngài còn tiếp: - Các ông có thể nhận thấy trong lời nói của ông Sàrìputta: Với tất cả sức thông minh và địa vị của ông trong hàng Tăng lữ. Ông đã dẹp bỏ được những khuôn mẫu độc tôn của kẻ thường cố gắng đặt kiến thức của mình lên trên những kẻ khác. Làm thế nào mà ông đã hiểu một cách dễ dàng phương pháp tiêm nhiễm những ý thức riêng của ông vào những bậc đồng đạo trong một nghệ thuật tự nhiên và huyền dịu đem đến cho họ một sự thấm nhuần lồng trong một khung cảnh vui tươi như vậy. - Đây quả thực là bản thức của ông đã phản ảnh ra, và đã lôi cuốn những người đồng đạo với ông hưởng ứng để đối đáp một cách tương tự. Ngoài các vị Đại Đức vừa kể trên ra, Đại Đức Sàrìputta còn luận đạo với những vị Tôn giả khác nữa. Chẳng hạn như các Ngài Kotthita, Upavàna, Samiddhi, Savittha, Bhùmija và một số vị nữa. Riêng đức Phật, theo kinh điển chúng ta thấy Ngài rất thường đích thân nói chuyện với Đại Đức Sàrìputta. Và ngược lại có khá nhiều bài pháp mà đức Bổn Sư thuyết cho những đệ tử thông luật của Ngài nghe, đã được Đại Đức Sàrìputta dùng làm đề tài để học hỏi... Có một lần, Đại Đức Sàrìputta đã lập lại những lời dạy mà đức Phật thuyết cho Ngài Ànanda nghe vào một dịp nọ: "Những đối xử làm cho đời sống trong sạch (Brahmacariyà) gọi là tình bằng hữu, tình đồng đạo và tình đoàn thể cao đẹp" (theo Kinh Magga SAMYUTTA Khandha -No. 2). Không có gì hoàn hảo hơn là những thí dụ cắt nghĩa về giáo lý mà chính một Đại đệ tử của một bậc Tôn Sư đã thể hiện được. MỘT KẺ ĐỠ ĐẦU TĂNG LỮ Sự nổi bật của Đại Đức Sàrìputta trong hàng môn đồ của đức Phật là đức tính chăm lo giúp đỡ những vị khác. Chúng ta tìm thấy thuật sự này trong kinh Devadaha Sutta: "Những vị khách Tăng khi sắp trở về chốn cũ của họ, đến từ giã đức Phật, Ngài thường khuyên các Tỳ-khưu ấy đến chia tay với Đại Đức Sàrìputta. Phật bảo: - Này các đệ tử! Sa-môn Sàrìputta thật không những là một người thông thái hằng giúp đỡ huynh đệ trên phương diện tinh thần, mà ông còn có khả năng cung ứng những nhu cầu vật chất cho đồng đạo nữa". (Kinh gọi hai sự giúp đỡ đó là Àmisànuggaha: Vật dụng và Dhammà nuggaha: Pháp dụng). Chú giải còn nói: Vị Trưởng lão này không đi khất thực trong lúc sáng sớm như những vị Tỳ-khưu khác. Thay vì thế, khi các vị đã đi rồi, Ngài bèn thả bước xung quanh tịnh xá. Và bất cứ ở đâu nếu Ngài tìm thấy đồ đạc không thu xếp, chỗ ngụ không sạch sẽ, Ngài liền dọn dẹp quét hốt mọi rác rưới, và sửa soạn ngay cả giường chiếu, bàn ghế, chén bát, bình nước, thứ tự và sẵn sàng để cho những vị kia đi về sẽ dùng. Ngài làm như thế, ngoài đức tính chăm sóc chư Tăng, còn nghĩ rằng: "Những đạo sĩ khác, không phải người trong Phật giáo khi viếng thăm tịnh xá, có thể thấy được sự vô trật tự rồi chỉ trích chư Tỳ-khưu hoặc coi rẻ Tăng chúng". Sau đó Ngài thường đi đến bệnh xá và an ủi những bệnh nhân bằng cách tìm hiểu xem họ cần những gì. Để đáp ứng các nhu cầu của họ, Ngài đã dắt các vị Sa Di cùng đi với Ngài để tìm thuốc men dưới hình thức đi khất thực như thường lệ. Hay Ngài dẫn họ đến những nơi thích hợp (tức thí chủ đã yêu cầu Ngài trước) để kêu gọi thuốc men. Khi đã được thuốc, Ngài bèn giao lại cho các vị Sa Di và bảo: - Này các ông! Chăm sóc cho những người bệnh là một điều mà đức Bổn Sư hằng khen ngợi. Bây giờ các ông hãy trở về và phải luôn luôn làm việc hết lòng. Rồi Ngài tiếp tục khất thực hoặc đến dùng bữa tại một nhà thí chủ. Đây là một thói quen của Ngài trong khi ở chung với cộng đồng Tăng chúng. Nhưng khi Ngài có một cuộc hành trình cùng với đức Thế Tôn, Ngài thường không đi chung với những vị dẫn đầu, hay không tỏ ra kiểu cách cho người ta biết Ngài là một Đại đệ tử. Trái lại Ngài chỉ giao y bát cho các vị Sa Di mang hộ, rồi đích thân trước tiên chăm sóc những Tăng sĩ già yếu, thứ đến là những vị không được khỏe mạnh và những vị mới xuất gia hay những đệ tử mới bước chân vào đường đạo. Trong nhiều trường hợp Ngài phải ở cạnh họ trong nhiều giờ, tự tay thoa bóp vào những chỗ đau đớn trên thân thể bệnh nhân và phân lượng thuốc uống cho từng người một. Chỉ khi nào Ngài thấy họ thuyên giảm Ngài mới từ giã đi săn sóc chỗ khác. Có một lần, khi cũng vì những lý do như vậy mà Đại Đức Sàrìputta đã đến nơi rất trễ, lúc đó những vị kia đã ngơi nghỉ. Ngài không tìm được một chỗ vừa phải để nghỉ lưng qua một đêm. Ngài phải ngồi dưới một mái lều làm bằng những lá y. đức Bổn Sư rõ như vậy, nên ngày hôm sau Ngài triệu tập Tăng Chúng và thuật cho họ nghe câu chuyện đối xử của một con voi, một con lừa và một con chim đa đa. Phật kể: "Ba con thú này cảm thấy muốn được an ninh phải sống nương dựa lẫn nhau. Chúng quyết định tôn một con lên làm anh cả để tạo trật tự rồi từ đó sống chung hòa thuận: nhỏ kính lớn, lớn thương nhỏ" (Truyện số 67, ghi trong Tittira Jàtaka). Sau đó đức Phật chế ra điều luật rằng: "Chỗ nghỉ ngơi phải được sắp đặt theo thứ bậc". (Theo Vinaya Cùlavagga, Senàsanà Khandhaka). Còn về việc tiếp độ các hàng Tăng lữ trên phương diện tinh thần, Đại Đức Sàrìputta cũng tích cực không kém. Căn cứ Kinh Thera Gathà và chú giải thì khi Ngài đến thăm ông Samittigutta, người đang bịnh cùi hoành hành trong một bịnh xá, Ngài đã thân mật giảng cho ông Samittigutta nghe rằng: - Này bạn! Đã lâu lắm rồi, pháp tập hợp (Khandha) hằng tiếp diễn. Và cảm nghĩ chỉ là sự đau khổ. Chỉ khi nào Ngũ uẩn không còn hoạt động liên tục nữa thì sẽ dứt khổ. Khi nghe xong những lời này, sự quán tưởng về những cảm nghĩ đã trở thành một đề mục cho bịnh nhân. Lúc Đại Đức Sàrìputta đi rồi, ông Samittigutta theo những lời chỉ dạy của Ngài đã phát triển được nội thức và đạt tới Lục thông (Chalabhinnà) của một bậc A-la-hán (theo Thera Gathà.). Lần khác khi ông Anàthapiịđika (Cấp Cô Độc) đang hấp hối nằm trên giường bịnh thì Đại Đức Sàrìputta đã cùng với Đại Đức Ànanda tới thăm, Ngài đã thuyết vào tai cho người sắp chết một phần pháp nói về sự ra đi không dính mắc, và ông bá hộ Anàthapiịđika đã thức tỉnh do bài pháp thâm thúy này (trong Majjhima Nikàya, Số 143.). Có một bài pháp khác cũng do Ngài Sàrìputta thuyết cho ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc) nghe khi ông này ở trong giường bịnh đã được ghi lại trong kinh Sotàpatti SAMYUTTA, đoạn III câu số 6 như sau: "Những động lực đưa đến sự tái sinh trong trạng thái thống khổ là ba gốc chướng ngại, năm sợi dây thằng thúc, và mười điều bất thiện". Pháp này được thấm nhuần khi ông Anàthapiịđika đang bước vào trong lãnh vực Thánh Lưu nên sự đau đớn thể xác không còn lung lạc ông ta được nữa. Kết quả ông đã thấy rõ bốn uẩn như không và bốn Quả, bốn Đạo không còn dư sót. Lại một lần đức Trưởng lão Channa đang ngã bịnh, bị một nỗi đau đớn vô biên. Đại Đức Sàrìputta đến thăm Ngài, cùng đi với Trưởng lão Mahà Cunda. Khi trông thấy vị Sa-môn bị bịnh hoạn dày vò, Đại Đức Sàrìputta lập tức tình nguyện đi tìm thuốc men và vật thực thích hợp cho Ngài. Nhưng Trưởng lão Channa vội cho biết Ngài quyết định chấm dứt cuộc đời. Nên sau khi họ đã đi rồi Ngài liền nhập diệt. Kế đó đức Phật đã giảng giải về hành động của Trưởng lão Channa. Ngài xác nhận đó không phải là một điều quyết định sai lầm vì Trưởng lão Channa đã đắc A-la-hán trước khi dứt khoát an nghỉ. Nghệ thuật tiếp độ của Đại Đức có thể tìm thấy trong kinh Channovàda Sutta thuộc bộ Majjhima Nikàya số 144. Đoạn ấy nói rõ: "Bất cứ khi nào Đại Đức Sàrìputta làm bổn phận đạo sư đến những người sắp trút hơi thở cuối cùng, Ngài cũng luôn luôn tỏ ra là một người kiên nhẫn phi thường. Ngài cứ khuyên nhủ và khai ngộ dồn dập cả đến trăm ngàn lần, cho đến khi nào bịnh nhân phát khởi thiện tâm Ngài mới an lòng chấm dứt. Nghệ thuật ấy cũng được Đại Đức Sàrìputta áp dụng để dạy dỗ học trò. Bất cứ người nào mới bước chân vào đạo mà được Đại Đức Sàrìputta hướng dẫn, Ngài cũng đều làm cho người ấy đắc quả Nhập Lưu (Tu Đà Hườn), sau đó Ngài mới chịu thả lỏng để đi dạy dỗ các vị khác. Số Tăng lữ dưới sự dạy dỗ của Ngài nhờ thu thập được giai đoạn căn bản vững chắc ấy đã tiếp tục thực hành đến lúc đạt được quả vị A-la-hán nhiều vô số kể". Trong kinh Sacca Vibhanga Sutta thuộc bộ Majjhima Nikàya số 141, đức Phật đã nói: "Đại Đức Sàrìputta như một người mẹ nuôi nấng các con, trong khi Đại Đức Mahà Moggallàna như là một người vú hằng nâng niu các con. Đại Đức Sàrìputta hướng dẫn cho đến quả Nhập Lưu còn Đại Đức Mahà Moggallàna thì nâng đỡ hành giả đến mục tiêu cao nhất". Để bổ túc về nghệ thuật dẫn đạo của Đại Đức Sàrìputta, Chú giải còn nói thêm: "Điểm đặc biệt của Đại Đức Sàrìputta là không phân biệt học trò mình hay học trò người. Hễ ai chịu sự dạy dỗ của Ngài, Ngài luôn luôn hướng dẫn bằng tất cả sự sốt sắng, luôn luôn giúp đỡ trên mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần nhất là chọn cho họ đề mục Thiền Định cùng thường xuyên khai triển trí thông minh của họ, cho đến khi nào họ thấu triệt được Thánh Lưu và tiến lên khỏi sự nguy hiểm của dục trần thấp thỏi. Khi nào Đại Đức Sàrìputta tách rời học trò khi ấy Ngài biết chắc rằng: "Giờ đây, với sức trưởng thành của họ, họ có thể tự tiến hóa để nhường tay cho những vị cần hướng dẫn khác". Nhưng Đại Đức Mahà Moggallàna thì khác. Ngài cũng huấn luyện học trò cùng phương pháp như vậy, nhưng Ngài không thả lỏng họ, dù cho họ có vững chắc trong giai đoạn đầu. Đại Đức Mahà Moggallàna có vững chắc trong giai đoạn đầu. Đại đức Mahà Moggallàna có một đức thận trọng vô song, Ngài quan niệm như một lần Phật đã thuyết: "Chỉ một mầm móng vi tế của tội lỗi còn ngấm ngầm trong tâm, Như Lai cũng không khen ngợi. Dù cho hành giả có được pháp Hữu tịnh trong một thời gian nào đó đi nữa mà gốc rễ của tội lỗi vẫn còn thì pháp Hữu tịnh ấy có thể tan biến dễ dàng như một cái búng ngón tay". Nhắc đến nghệ thuật huấn đạo của Đại Đức Mahà Moggallàna khác với Đại Đức Sàrìputta như vậy không có nghĩa là nói rằng phương pháp của Ngài Mahà Moggallàna tỏ ra chắc chắn hơn phương pháp của Đại Đức Sàrìputta, mà chỉ có thể chứng minh tại sao hai vị đã theo đức Phật cùng một lần, mà về sau học trò của Đại Đức Sàrìputta lại nhiều hơn học trò của Đại Đức Mahà Moggallàna. Mặt khác, Chú giải ghi lại những lần Đại Đức Sàrìputta đã dắt dẫn nhiều huynh đệ đạt đến đạo quả A-la-hán không phải là ít. Chẳng hạn như có một đoạn nói: "Vào lúc ấy có chư Tỳ-khưu trong giai đoạn huấn luyện tâm thức bậc cao (Sekhà) thường đến gần Đại Đức Sàrìputta để nhờ chọn đề mục Thiền Định. Trong số đó có Sa-môn Trưởng lão tên Lakuntika Bhaddiya đã đắc được quả A-la-hán nhờ sự hỗ trợ của Đại Đức Sàrìputta" (Theo Kinh Udana VII-1). Với những đóng góp như vậy, Đại Đức Sàrìputta đã có công trong việc phát triển Pháp Bảo rất nhiều. Ngài là một bậc lãnh đạo vĩ đại của Tăng Già, và là một tấm gương sáng trong hàng Tứ chúng. Những bài học mà Ngài đã lưu lại cho ta sau này không những chỉ bén nhọn và cho ta sau này không những chỉ bén nhọn và sáng tỏ, thức tỉnh được tâm tánh của con người mà còn là một sự lợi ích thiết thực, trong đó cái tên Sàrìputta giống như một bàn tay nâng niu, một bóng mát vĩ đại cho những ai ngưỡng mộ muốn bước theo dấu chân của Ngài. Lại nữa, trong kinh còn ghi nhận những tiểu tiết về cách thưởng thức Pháp bảo của Đại Đức Sàrìputta trước những Sa-môn mà Ngài chưa có dịp thân cận. Chẳng hạn như chuyện Ngài Punna Mantàniputta, một Cao Tăng mà Đại Đức Sàrìputta chỉ nghe danh chứ chưa được làm quen. Khi hay tin Trưởng lão này muốn đến thăm, Ngài đã vui vẻ tiếp đón và chăm chú thưởng thức một bài pháp của vị khách Tăng một cách kính phục khi bài pháp chấm dứt, Ngài đã vô cùng khen ngợi (theo Trung A Hàm ( Majjhima Nikàya) số 24.). Sự làm chủ được thể xác cũng như đối với những nhu cầu tinh thần của chư Tỳ-khưu dưới sự đảm trách của Ngài. Ngài đã không kềm chế họ bằng những lời quở dạy hiền từ, và làm cho họ trở nên quả cảm bởi sự khen ngợi về những cố gắng xứng đáng, hướng dẫn họ trên con đường tiến hóa, cùng chỉ cho họ tất cả những gì mà họ cần làm để xứng đáng là đệ tử của Phật. Những gì Ngài nói ra tự Ngài đã thực hành được. Đó là mãnh lực lôi kéo và làm biểu lộ những đức tánh tốt nhất của các hàng học trò. Đại Đức Sàrìputta đã hòa hợp những phẩm tính của một ông thầy hoàn toàn với đức hạnh của một người bạn trọn vẹn. Ngài như một ánh đèn, vừa là một vật dụng hằng ngày, cần thiết của Giáo Hội Tăng Già vào thời đức Phật. Vị đã được trọn đủ những đức tánh của một kiếp sống đầy phẩm Thánh của chính mình nên Ngài rất tinh tường trong khi nhận thấy giới đức nơi những vị khác. Ngài là chuyên viên để phát triển nó trong những ai đang ngấm ngầm chứa đựng nó. Và trong số những người ca ngợi khi giới đức của một vị nào bộc lộ ra ngoài như một cánh hoa đến kỳ khai nở thì Ngài là người đầu tiên làm việc đó. Sự ca ngợi của Ngài là một sức mạnh che chở cho đóa hoa tiếp tục nở rộ, chứ không phải gây kinh động cho nó dừng lại ở đó. Đức tính hoàn toàn riêng biệt này của Ngài không phải vô tình hay giả tạo, mà là một sự hòa hợp súc tích bên trong, về sự tán dương tinh thần với những phẩm tính tốt nhất và huyền dịu nhất của một Thánh nhân.

SỰ ĐẠT TỚI MỤC ĐÍCH

Trong Theragàthà có hai bài kệ số 995 và 996 là những câu mà nhờ đó Đại Đức Sàrìputta khi nghe đã đắc quả A-la-hán. Ngài đã thuật lại rằng: "Có một lần nọ, đức Phật thuyết pháp cho một vị Tỳ-khưu khác nghe, bần đạo đã chú tâm theo dõi bài pháp ấy để tìm sự lợi ích thiết thực cho mình. Kết quả thật vô cùng xứng đáng, vì nhờ nó bần đạo đã thoát khỏi những dục tâm, bần đạo đã tẩy trừ được phiền não". Trong hai bài kệ nối tiếp số 996 và 997 Đại Đức Sàrìputta đã nói lên rằng: "Ngài không gặp một chút trở ngại nào trong việc phát triển năm sức mạnh phi thường (Abhinnà)". Còn căn cứ theo kệ ngôn Iddhividha, trong kinh Patisamhbidà Magga thì khi ấy Ngài đã đại tín thắng thức và nắm vững sự định tâm trong các bậc Thiền. Sức thuần thục ấy gọi là Lực an trụ (Samàdhi Vipphàriddhi), nó có khả năng hộ trì tâm lý khỏi những biến hiện tự nhiên và bất thần của Nội ma lẫn Ngoại ma. Điều này được diễn tả do một mẫu chuyện chép trong kinh như sau: "Một lần nọ, khi Đại Đức Sàrìputta đang hành đạo với Trưởng lão Mahà Moggallàna tại miền Kapotakandarà. Lúc ấy Ngài đang tham thiền ngoài chỗ trống với cái đầu vừa cạo. Khi đó có một hung thần xuất hiện và đánh lên đầu Ngài một cái như trời giáng. Cú đánh thực là ác nghiệt. Nhưng ngay lúc bị đánh, đức Sàrìputta đã hoàn toàn nhập định. Kết quả Ngài cũng chẳng hay biết chi cả". Câu chuyện này rút từ kinh Udàna, cuốn số 15, đoạn 4. Kinh ấy còn tiếp tục câu chuyện như sau: Đại Đức Mahà Moggallàna đã trông thấy việc bất ngờ đó và lại gần Trưởng lão Sàrìputta hỏi xem Ngài có làm sao không. Đại Đức hỏi: - Này đạo huynh! Ngài có an tịnh không? Và chẳng có việc gì làm rầy Ngài chứ? - Tôi rất thoải mái, phỉ lạc, này pháp đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham thiền nhiều tiến triển lắm. Chỉ khi xả thiền thì cái đầu của tôi làm trở ngại chút ít thôi. Đại Đức Mahà Moggallàna liền tán thán lên ngay nơi ấy: - Này đạo huynh Sàrìputta! Thực là kỳ diệu. Thật là một trạng thái kỳ lạ. Này đạo huynh Sàrìputta! Sức mạnh thể xác và năng lực của Ngài thực là vô địch. Vì vừa đây đạo huynh Sàrìputta. Có một hung thần đã giáng cho Ngài một cái đánh trên đầu, và là một cú đánh đầy sức mạnh. Với một cái đánh như thế, người ta có thể hạ nổi một con voi cao bảy tám do tuần. Hoặc giả một người có thể dùng sức mạnh đó thì xẻ đôi được một quả núi. Thế mà Đại Đức Sàrìputta chỉ nói: "Tôi cảm thấy phỉ lạc lắm này đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham thiền khá tiến hóa, chỉ có cái đầu tôi làm trở ngại chút ít thôi". Sau đó Đại Đức Sàrìputta trả lời: - Ôi! Thực là tuyệt diệu, này đệ Mahà Moggallàna! Thực là một kỳ lực, này đệ Mahà Moggallàna! Sự bén nhạy thể chất và năng lực tinh thần của Ngài vĩ đại làm sao đến nỗi Ngài có thể trông thấy một hung thần tức khắc. Về phần tôi, tôi đã không trông thấy kịp như đôi mắt siêu tốc của Ngài. Kinh Anupada (Trong Majjhima Nikàya No III) còn chứa phần mô tả sự đạt được đạo quả của Đại Đức Sàrìputta, do chính đức Thế Tôn thuyết. Trong đó đức Phật nói rằng: "Đại Đức Sàrìputta ta đã thành công và thông hiểu chín bậc thiền, nghĩa là bốn thể chất thiền và bốn siêu thể chất thiền (Jhàna) đồng thời với sự Không thức và Không nghĩ". Trong kinh Sàrìputta Samyutta, phần Khandha Vagga, chính đức Trưởng lão đã xác nhận sự thật như thế khi nói chuyện với Đại Đức Ànanda. Ngài phân tích: "Xuyên qua các bậc Thánh mà Ngài đã vững chắc tiến lên là nhờ những TUỆ DIỆT TƯ THỨC như": Tôi chẳng bao giờ quan niệm là tôi đang tiến vào bậc thiền này hay vượt khỏi bậc thiền kia, cho dù thực tế tôi đang tiến hành trong đó". Và trong một dịp khác, Ngài đã diễn tả cho Đại Đức Ànanda nghe về sự đạt được an trụ để phát triển nội trí như thế nào. Nhất là làm sao để thoát khỏi sự lôi cuốn của Tứ đại gồm đất, nước, lửa và gió. Thí dụ như Ngài nói "Hãy niệm đất như đất mà không cần biết đất đó nằm trong Tứ đại. Và tương tự như thế, đối với ba đại kia cũng vậy". Theo đó, đối với bốn bậc thiền, Lạc Trụ Siêu Thế (hay còn gọi là Lạc Trụ Vô Sắc), Ngài cũng không để cho Lực Tri Giác xuất hiện. Điều này mới nghe qua ta có cảm tưởng như lúc ấy Ngài đã hoàn toàn biến thành một người Vô thức. Nhưng kỳ thật Ngài vẫn còn một thức. Đó là Thức hướng về Niết Bàn, thức tách rời mọi sự ràng buộc từ bất cứ pháp thể nào (Bhava Nirodha). Thái độ tách rời này đối với các bậc Thiền là những công lực sẵn sàng để duy trì an tịnh trong trạng thái trống rỗng (Sunnata Vihàra), mà Đại Đức Sàrìputta hằng nuôi dưỡng. Chúng ta đọc trong Kinh Pindapàta Pàrisuddhi, số 151 (thuộc bộ Majjhima Nikàya Trung A Hàm) thấy rằng: Có một lần đức Phật đã khen ngợi về những nét tươi tỉnh của Đại Đức Sàrìputta, và Ngài dạy Đại Đức hãy nói ra cho chư Tăng biết nhờ trạng thái tư tưởng nào mà có được những nét tươi tỉnh này. Đại Đức Sàrìputta vâng lời đáp: - Đệ tử thường tập tánh pháp bền chịu trong sự trống rỗng". Do đó đức Phật đã tán thán: "Đây chính là nơi cư trú của những hàng vĩ nhân". Tiếp theo là Đại Đức Sàrìputta đã mô tả pháp trạng ấy bằng chi tiết. Kinh Udàna còn ghi rõ "Chính đức Thế Tôn đã ba lần trông thấy Đại Đức Sàrìputta khi ngồi thiền phía ngoài tịnh xá đã ngâm những câu kệ (Udàna) để làm vững chắc cho tâm con yên tĩnh". Chúng ta hãy đọc lại và thử tưởng tượng theo kinh Devadaha, trong SAMYUTTA Khandhaka No 2, một khung cảnh ngồi thiền của Đại Đức Sàrìputta thật ngoạn mục như sau: "Một lần nọ, đức Thế Tôn ngụ trong nước Sakya, tại thành Devadaha, Ngài đã tìm thấy Đại Đức Sàrìputta nhập sâu trong Thiền cảnh dưới một vòm cây Elagalà. Giống cây này chỉ mọc ở chỗ nào luôn luôn có một dòng nước chảy qua. Người ta đã làm cái vòm cây ấy bằng bốn cây trụ trên đó để bụi cây đan nhau tạo thành một mái nhà. Bên dưới, mặt đất được trải cát bằng phẳng và ở chính giữa có lót những viên gạch để ngồi. Thật là một chỗ mát mẻ, yên lặng với những luồng gió nhẹ, trong sạch từ dưới nước thổi lên. Và đức Thế Tôn đã tán thán cái khung cảnh ấy. Còn nói về sự đạt được Tuệ Phân Biệt (Patisambhidanàna) của Ngài, Đại Đức Sàrìputta đã diễn tả trong kinh Anguttara Nikàya số 172 như sau: "Này các đạo huynh. Sau khi bần Tăng xuất gia được nửa tháng, bần Tăng đã trực nhận được ý nghĩa của Pháp Thân, trong sáng của ngôn ngữ, an tịnh của ý thức do Tuệ Phân Biệt từ thể phần chi tiết. Những điều này bần Tăng đã nhiều lần đem trình bày cho chư huynh đệ và giảng giải cho quí vị hiểu một cách tận tường về bản chất của nó. Nếu vị nào bị phân vân hoặc không nắm vững trong khi bần Tăng đã tận lực thì chỉ có đức Bổn Sư là người có khả năng làm sáng tỏ tất cả". Căn cứ theo đó thì Đại Đức Sàrìputta là người rất am tường về mọi trạng thái chứng đạt đạo quả. Ngay cả trí tuệ là vấn đề phức tạp nhất mà Đại Đức Sàrìputta cũng thông đạt, nên đức Phật đã nói: - Nếu có một kẻ hằng nói về mình rằng họ đã vững chắc và hoàn toàn trong đức hạnh, an trụ trong thanh tịnh, giải thoát trong cao thượng thì người ấy chính là Sàrìputta, một Sa-môn có thể nói được một cách trung thực. Rồi Phật còn xác nhận: - Nếu có một kẻ hằng nói về mình rằng họ là đứa con thật sự của đức Thế Tôn thấu hiểu được giáo lý của Ngài, thông suốt và thực hành được Pháp bảo, xứng đáng làm người thừa tự Pháp bảo và không thừa hưởng những nguồn lợi ở đời thì người đó chính là Sa-môn Sàrìputta mới có thể nói đúng. - Này chư Tỳ-khưu! Ngoài Như Lai ra, Sàrìputta sẽ là người có thể lăn được bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn gần giống như Như Lai đã lăn. (theo Majjhima Nikàya III, Anupada Sutta). ĐẠI ĐỨC SÀRÌPUTTA, NGƯỜI XỨNG ĐÁNG LĂN BÁNH XE PHÁP BẢO Những bài pháp của Đại Đức Sàrìputta và những mô tả của đức Phật hay của các vị Tôn túc khác về Ngài đã chứng tỏ Đại Đức Sàrìputta đóng một vai trò hàng đầu trong việc chuyển lăn bánh xe pháp. Chúng ta thấy điều này đã được chứng minh bằng hai thời pháp cổ điển trong kinh Sammàditthi No 9, thuộc bộ Majjhima Nikàya (Trung A Hàm) và một phần trong kinh nói về "Sự so sánh những bước chân voi". Đoạn nói về "Sự so sánh những bước chân voi" này quả là một kiệt tác trị tâm bịnh một cách rất khoa học. Nó bắt đầu bằng sự nhắc lại bốn Pháp Diệu Đế. Tiếp theo nó phân tích từng sự thực về mỗi hoạt động của Ngũ uẩn, của bản chất con người, từ sự kết hợp thân thể tính đến sự kết hợp ý thức tính. Nó còn nói rõ sự cấu tạo của Tứ Đại mà mỗi đại trong đó cái nào được gọi là Nội thể hay cái nào được gọi là Ngoại thể. Những bộ phận và những động tác thân thể nào được ý thức chỉ huy và những cái nào bị ngoại cảnh chi phối. Nó còn nói rõ cái mà người ta gọi là bản ngã vốn chỉ là nội tâm bám chặt vào ngoại cảnh. Khi đã nhận thức như vậy thì sẽ thấy rõ xác thân tứ đại hẳn là một ngoại cảnh. Tuy cả hai nội tâm và ngoại cảnh đều có bản chất vô thường, nhưng cái vô thường của nội tâm ta có thể dùng thiền định chỉ huy, còn cái vô thường của ngoại cảnh ta chỉ biết có khổ. Rồi bài pháp lại tiếp: "Vô thường là một định luật, không phải là nguyên nhân của khổ, chỉ vì sự bám chặt vào những sắc thái vô thường mới là mầm móng của muôn điều khổ não. Sự bấn loạn khi ý thức không bắt kịp hay không biết rõ mọi biến đổi của sắc thân chính là khởi điểm của một chuỗi huân tập và làm nẩy sinh ra cái mà ta gọi là bản ngã (tức Ngũ uẩn) đau khổ". Khi một Sa-môn có được sự nhận thức như thế rồi, đồng thời với sự thanh tịnh sáng suốt đã được phát triển trong tâm, Sa-môn ấy khi đương đầu với những chướng ngại như mất mát, chê trách hoặc thù hận, họ sẽ không khó chịu hay bấn loạn tư tưởng. Trái lại, họ sẽ rất sáng suốt thấy rõ phiền não nổi lên ở nơi nào liền diệt ngay tại nơi ấy. Chẳng hạn như phiền não nổi lên ở nhãn căn thì diệt ngay nhĩ thức, phiền não nổi lên ở thiệt căn thì diệt ngay thiệt thức, phiền não nổi lên ở thân căn thì diệt ngay thân thức, phiền não nổi lên ở ý căn thì diệt ngay ở ý thức, phiền não nổi lên ở tâm sơ định thì diệt ngay ở sơ định thức, phiền não nổi lên ở tâm cận định thì diệt ngay ở cận định thức v.v... Cứ như thế, Sa-môn trong Phật giáo khi đã an tịnh và nhập lưu (kể từ đạo quả Tu Đà Hườn) thì họ chỉ tiến chứ không có thối. Dù trong khi tiến hóa, sắc thân tứ đại của họ có bị đánh ngã, tâm trí họ cũng vẫn không bị tổn thương. Đối với họ, sau khi đã dẹp bỏ mọi phiền não, mọi vướng mắc, mọi câu chấp rồi tâm trí chỉ còn một việc duy nhất là đề mục Thiền Định. Những hạng Sa-môn này khi nghe được Pháp bảo của chư Phật thì trạng thái an tịnh nơi họ liền trở nên tinh khiết, trong suốt, ý niệm vô lượng liền lập tức phát sinh. Họ tưởng nhớ đến đức Phật, đức Pháp và đức Tăng cùng một lúc tỏa ra tâm đại xả trước vạn pháp vui cũng như khổ". Còn đối với những ai chưa đạt được quả Thánh, thời pháp tiếp: "Khi hành giả hướng tới đức Phật, đức Pháp và đức Tăng, sự bình thản của họ nếu không được bền vững, họ cũng vẫn tiếp thụ kinh cảm để tinh tấn gầy dựng thanh tịnh. Và sự tiếp thụ kinh cảm ấy chính là tia sáng hướng dẫn hành giả trở về với đề mục cao thượng. Mặc khác, nếu sự an tịnh luôn luôn bền vững hành giả chắc chắn sẽ tăng trưởng phỉ lạc. Và họ chỉ cần kéo dài tình trạng phỉ lạc này để bước đến ngưỡng cửa Thánh nhân không còn xa mấy". Trên đây là tất cả những Yếu pháp được coi như do Đại Đức Sàrìputta đã khám phá và thuyết ra. Phần hậu luận dành cho phàm nhân được trình bày bằng cách so sánh toàn bộ một con người với một ngôi nhà có năm cửa ván xung quanh và một cửa kính chính giữa. Cửa ván thì khi đóng, che mắt được đạo tặc, song cửa kính thì dù đóng hay mở, đạo tặc cũng nhìn thấy rõ bên trong. Cửa ván có thể bị những ngoại vật ô uế làm hư mục, nhưng cửa kính chỉ bị các vật ấy làm mờ đục mà thôi. Người chủ nhà khôn ngoan là người chỉ mở cửa ván bên ngoài cho bạn lành bước vào và luôn luôn lau chùi cửa kính bên trong cho thật trong sáng để thấy rõ mọi phía xung quanh hầu tìm bắt ngoại tặc lẻn vô ẩn núp đâu đấy mà đuổi ra, không cho xâm nhập tận trung tâm. Tương tự như thế, một con người có năm giác quan (Ngũ căn) ví như năm cửa ván bên ngoài, và ý căn ví như cửa kính bên trong. Bạn xấu ví như đạo tặc, ngoại vật ô uế ví như ác pháp. Bạn lành ví như giới đức. Việc lau chùi cửa kính ví như thiền định. Sự trong sáng ví như thiện pháp. Và sau cùng, người chủ nhà ví như con tâm. Người thiện trí thức là người không phải chỉ biết lo gìn giữ ngôi nhà cho được tốt đẹp trong khi nó còn vững chắc, mà một cách thấy xa hơn, người ấy còn phải lo kết nạp bạn lành chuẩn bị vật liệu để khi ngôi nhà cũ xiêu, sụp đổ, họ có thể dựng lại một ngôi nhà mới khang trang hơn. Tương tự như thế, bậc hữu học là người luôn luôn cảnh giác Ngũ căn, ngăn ngừa Ngũ trần gìn giữ giới đức và thanh lọc nội tâm cho được trong sạch. Cao thượng hơn nữa là những hàng hữu học ấy tình nguyện xuất gia khép mình vào đời sống Sa-môn để thường xuyên thực hành thiền định. Nếu giới luật là khuôn thước để huấn luyện Ngũ căn, thì thiền định là phương pháp để thuần thục ý thức. Các Sa-môn khi đã vững chắc trong thiền định rồi thì sự ham muốn, sự buồn rầu, sự ràng buộc chỉ là những nhiễu nhương cố hữu của Ngũ uẩn. Loại trừ những phiền não ấy bằng tâm vô lượng không cảm thấy vui sướng rằng mình đã tiêu diệt được nó là đạt đến Thánh quả giải thoát. Do đó, nội dung của bài pháp nói trên đã diễn tả trọn vẹn bốn chân lý hằng có (Tứ Diệu Đế). Trong khi thuyết giảng bài pháp ấy, Đại Đức Sàrìputta đã khéo léo như một nhạc trưởng kỳ tài, biết sử dụng nghệ thuật phối hợp âm thanh ở mức độ toàn hảo nhất, khiến cho ban nhạc vang lên một cách uy nghiêm và hùng tráng. Còn trong bài pháp kia, kinh Sammà Ditthi (nói về Chánh kiến), Đại Đức Sàrìputta quả thật là một người cầm đuốc soi đường. Vì giữa rừng sinh tử vô minh, ai muốn được giải thoát phải bước chân vào hẳn Bát Chánh Đạo của chư Phật, và cửa ngõ đầu tiên mà hành giả phải đi xuyên qua là Chánh kiến, tức thấy hiểu chân chánh. Đề pháp này khi được Đại Đức Sàrìputta phân tích đã trở thành một kiệt tác giáo lý. Ngài còn chứng minh cho thính giả thấy rằng Chánh kiến là cái chìa khóa để mở cổng đi vào Thánh đạo. Ai không có Chánh kiến là người ấy không có tất cả. Theo Ngài Chánh kiến không phải chỉ đơn giản là khả năng nhận thức đứng đắn, khách quan như quan niệm của thế gian, mà một cách khác hẳn "Chánh kiến là thanh tịnh hiểu biết", hay "không có một câu chấp nào hết trong khi nhận thức vấn đề'. Vì câu chấp (tức thành kiến) thường rơi vào một trong hai trạng thái là khách quan hay chủ quan, sẽ làm cho tâm trí của con người vẩn đục. Hoặc nói một cách khác Chánh kiến trong Phật giáo không phải là nguyên nhân của Chánh tín như nhiều người lầm tưởng, mà nó chính là thành quả của Thiền định. Mặt khác, nếu chúng ta chịu khó đọc lại năm bộ A Hàm (Nikàya) (Năm bộ A Hàm ấy là: 1/ Trường A Hàm (Dìgha Nikàya). 2/Trung A Hàm (Majjhima Nikàya). 3/Tạp A Hàm (SAMYUTTA Nikàya). 4/Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya). 5/Tiểu A Hàm (Khuddaka Nikàya).) của Tạng Kinh (Sutta Pitaka), chúng ta sẽ thấy Chánh kiến như một đề tài chính, luôn luôn được nhắc đến. Chú giải còn ghi rõ: Nói đến Chánh kiến là nói đến Bát Chánh Đạo. Hay nói đến Chánh kiến là nói đến Tứ Diệu Đế. Nơi nào có Chánh kiến là nơi đó có hạt giống thánh thiện đã được gieo. Trong Tạng Kinh, Chánh kiến và Tứ Diệu Đế được nhắc đến ba mươi hai lần, và tất cả ba mươi hai lần ấy đều liên hệ đến Thánh quả. Một bài pháp khác của Đại Đức Sàrìputta trong bộ Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya Quyển I 63) là kinh Samma Citta (Chánh Tâm) đã được thuyết cho chư Thiên và Thánh nhân từ Tư Đà Hàm trở lên nghe. Trong bài pháp này, Đại Đức Sàrìputta đã nói đến những kiếp sau cùng của "vài hàng chúng sanh sắp bước chân ra khỏi rừng sanh tử luân hồi". Đây là một bài pháp phân tích thật rõ ràng về các Thiên cảnh, Siêu thức cảnh, Vô lượng thọ cảnh v.v... mà Đại Đức Sàrìputta đã làm cho chư Thiên tụ hội nhiều vô số kể. Có một đoạn thuật lại rằng: "Khi ấy rất đông chư Thiên từ quả Thánh thấp đã đắc lên quả Thánh cao, và một số chư Thiên khác nhờ nghe Pháp mà bước được vào đạo Thánh Lưu (tức Tu Đà Hườn). Căn cứ theo kinh điển thì ấy là bài pháp đưa đến kết quả đạt Thánh cao nhất trong đời Đại Đức Sàrìputta". Mặc dù đó chỉ là một bài pháp tóm tắt, có vẻ như huyền hoặc, vì không có một chứng minh thực tế nào, không có một chú giải thí dụ nào cho phàm nhân hiểu được, nhưng nó là những Thánh ngôn mà các Đại Thiền Sư từ xưa đến nay hằng tôn tụng và trì chú. Lịch sử Phật giáo Tích Lan cũng chép: "Thánh Tăng Mahinda, con trai Hoàng đế Asoka (A Dục), khi truyền Phật giáo vô nước Tích Lan, một buổi chiều nọ đã thuyết lại hai bài pháp Samma Citta và Mahà Vamsa (XIV-34ff.)". Quốc Sử ấy còn nhấn mạnh: "Khi nghe pháp có vô số chư Thiên và các hàng đại trí thức đã thấm nhuần Pháp bảo". Kết quả của hai bài pháp này sở dĩ vĩ đại như vậy là vì Đại Đức Sàrìputta đã cung cấp một cách rành mạch những sự gợi thức cho các hàng chư Thiên và đại trí thức về những cảnh kế tiếp sau kiếp hiện hữu của họ. Chẳng hạn như có một số chư Thiên khi đang phát triển để đắc lên những bực Thánh cao hơn, thời gian cần thiết phải còn dài, mà tuổi thọ đang có lại ngắn ngủi, nên họ đâm ra lo lắng cho tuổi trời của mình, và nhất là không muốn bị tái sinh vào cõi Ngũ uẩn (người) như trường hợp lắm lúc đã xảy ra. Bài pháp của đức Trưởng lão đã cắt nghĩa đến họ một cách đầy đủ để cho họ có thể xét đoán nổi vị trí của mình, vì thói thường khi còn ở ngoài Thánh đạo, muốn được tiến hóa, cần phải có một sự định hướng giá trị mới có thể dắt dẫn hành giả tiến cao hơn được. Kinh Sangiti và Dasuttara là hai bài pháp khác nữa trong những bài pháp của Đại Đức Sàrìputta. Đó là hai phần sau cùng của bộ Digha Nikàya, một bộ kinh bao gồm những bài pháp dài. Cả hai phần này có thể xem như là bảng mục lục của bộ Digha Nikàya hay Trường A Hàm, vì nó liệt kê toàn những đề pháp được đánh số từ một tới mười. Lý do của sự đánh số là để giúp trí nhớ cho những người muốn nắm vững nội dung bộ kinh này. Về sau các Phật Học Viện đã gọi bảng mục lục ấy là bảng kê khai Pháp Số, và toàn thể học Tăng sẽ tùy theo trình độ mà phải học thuộc lòng những Pháp Số ấy trước khi trở thành Giảng Sư để đăng đàn thuyết pháp. Kinh Sangiti đã được Đại Đức Sàrìputta nói ra dưới sự chứng minh của đức Phật. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng đức Bổn Sư đã hoàn toàn chuẩn y bảng danh mục Pháp bảo do Đại Đức Sàrìputta thiết lập. Trong khi kinh Sangiti ghi lại những Đề Pháp có trật tự từ thấp tới cao, thì kinh Dasuttara nêu rõ các chi của từng Đề Pháp một. Như vậy hễ nói đến pháp số một là Đề Pháp ấy chỉ có một chi, và khi nói đến pháp số hai là Đề Pháp ấy có hai chi, pháp số ba có ba chi, pháp số bốn có bốn chi v.v... Kỹ thuật chương mục hóa Pháp bảo này trong Tạng Kinh của Đại Đức Sàrìputta rõ ràng là sự đóng góp sau cùng của cuộc đời Ngài cho Phật giáo. Vì trước khi nhập diệt Đại Đức Sàrìputta đã nghĩ: "Pháp bảo ví như một kho tàng châu báu. Muốn sử dụng một cách đủ giá trị và có hiệu lực, toàn bộ châu báu ấy phải được sắp xếp có hệ thống". Hơn nữa, khi ấy lại nhắm vào lúc Giáo chủ Nigantha Nàtaputta, một người cầm đầu tôn giáo cùng thời với đức Phật, qua đời. Các đệ tử của ông ta đã chia rẽ và y cứ theo những lời dạy hoàn toàn vô trật tự. Đại Đức Sàrìputta e sợ nguy cơ ấy có thể xảy đến cho Phật giáo, nên đích thân tự làm công tác này. Mặt khác, ngay sau khi đức Bổn Sư tịch diệt, hiển nhiên hơn câu chuyện của ông Nigantha Nàtaputta, còn có câu chuyện của Giáo chủ Mahà Vìra (Đạo lõa thể). Điều này đã chứng minh rằng Đại Đức Sàrìputta đã có một cái nhìn thật xa. Bằng có là trong các thời pháp sau cùng của Ngài, Ngài luôn luôn lập lại: "Hỡi chư huynh đệ! Đạo pháp này phải được tất cả học thuộc lòng, hòa hợp với nhau mà không có sự xích mích. Chỉ như thế, đời sống Tăng lữ mới duy trì vững bền để phục vụ cho sự an vui và hạnh phúc của chư Thiên và Nhân loại". Chú giải còn cho biết rằng: Mục đích của kinh Sangiti là đem đến sự ưa thích ở pháp hòa thuận (Samaggisasa) trong giáo lý giải thoát bằng sự tiên đoán để di huấn đầy đủ (Desanà Kusalatà). Riêng Kinh Desuttara, Đại Đức Sàrìputta đã mở đầu bằng câu: "Dasuttaraô pavakkhàmi Dhammaô nibbànappattiyà. Dukkhassantà kiriyàya sabba ganthapamoca raô...". Nghĩa là: Bài pháp mang tên Dasuttara mà bần Tăng sắp nói ra đây là một giáo lý để đạt đến Niết Bàn và chấm dứt phiền não, cắt đứt sợi dây ràng buộc nô lệ". Rồi trong đoạn sau, Ngài đã nhấn mạnh: "Pháp bảo khi đã kết tập và ghi nhớ có hệ thống, sẽ được truyền bá nguyên vẹn đủ chi tiết của nó. Đây chính là lý do khiến bần Tăng thuyết ra hai bài Yếu Lục ấy". Trong cuốn sách này, chúng ta chỉ có thể nhắc đến một vài "đóng góp độc đáo" vào kho tàng Pháp bảo của Đại Đức Sàrìputta mà thôi, vì hãy còn rất nhiều những bài pháp của Ngài nằm rải rác trong Tam Tạng kinh điển mà chúng ta không có dịp bàn kỹ. Một bảng tóm tắt về những bài pháp khác của Đại Đức Sàrìputta đã thuyết, được trình bày ở phần cuối cuốn sách này để giúp cho những ai muốn tra cứu có thêm một số tài liệu. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu khả năng Chú Giải (Atthakathà) của Đại Đức Sàrìputta trong Tam Tạng Pàli. Trước hết hãy nói về quyển Niddesa, thuộc bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu A Hàm). Đây là quyển Chú Giải duy nhất được lưu truyền kể từ thời đức Phật. Kinh này chia làm hai phần là Mahà Niddesa (Đại Chú Giải) và Cùla Niddesa (Tiểu Chú Giải). Mahà Niddesa bàn về Atthaka Vagga ở trong kinh Nipàta. Còn Cùla Niddesa thì dẫn giải đoạn Paràyana Vagga trong Khagga Visàna nằm ở phần cuối kinh này. Nhiều học giả khi nghiên cứu Phật giáo đã xác nhận cuốn Niddesa là quyển sách xưa nhất. Có thể nó đã xuất hiện vào thời kỳ đầu tiên có Tăng bảo trong giáo pháp của đức Phật Thích Ca. Bằng chứng là trong kinh Udàna có ghi rõ sự thuộc nằm lòng đoạn Atthaka Vagga của Đại Đức Sona. Kinh Anguttara Nikàya cũng ghi lại sự thuộc nằm lòng đoạn Paràyana Vagga của một tín nữ là bà Nanda Màtà. Vẫn biết kinh Phật là do chính đức Phật thuyết ra, nhưng sự chú giải lại do các Đại Sa-môn đảm nhận. Và Đại Đức Sàrìputta là một Đại môn đồ đã làm công tác đó trước nhất. Nghĩa là Ngài đã làm ngay trong thời kỳ Phật giáo mới bắt đầu có Tăng bảo. Có ít nhất là năm trường hợp trong kinh Nipàta, chính đức Phật đã tuyên dương công tác này của Đại Đức Sàrìputta. Cũng có vài thuyết cho rằng cuốn Niddesa là do công lao của nhiều vị Đại tông đồ của đức Phật hợp lại mà thành. Tuy nhiên, căn cứ theo chú giải trong kinh Thera Gathà do Đại Đức Bhadantà Cariva Dhammapàla biên soạn thì tác giả của kinh Niddesa là Đại Đức Sàrìputta (Dhamma Enapati). Còn theo Giáo sư E. J. Thomas trong "Nguyên Sử Phật giáo" thì hầu hết nội dung của Niddesa là đóng góp của Đại Đức Sàrìputta. Ngoài ra, Giáo sư E. J. Thomas còn viết: "Nét đặc biệt nhất của kinh Niddesa là gồm có một bảng kê khai đồng ngữ đã được bình giải rõ ràng. Những giảng luận như thế không phải dùng để cắt nghĩa từng tiếng hay từ đoạn riêng biệt, mà trái lại có thể áp dụng chung cho bất cứ chỗ nào có một câu pháp tương tự. Do đó người ta có thể gọi nó là một "Bình Luận Tự Điển". Những bình luận như thế rất hữu ích trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), nhất là để y cứ theo thánh nghĩa hơn là cứ suy giải theo sức hiểu biết của mình". Điều này chỉ cho chúng ta thấy rằng: Một hệ thống học hỏi từ ngữ và ngôn lý trong Phật giáo đã được thành hình tối cổ. Hệ thống này chỉ có một điểm bất tiện là không có những qui tắc tự vựng như văn phạm ngày nay... Thay vào đó Niddesa lại có một lối phân tích (Patisambhidà) khá đầy đủ, chẳng hạn như phân tích Nghĩa lý (Attha), phân tích Điều kiện (Dhammà), phân tích Tự căn (Nirutti), phân tích Ứng đối (Patibhàna) v.v... Riêng cách phân tích Tự căn lại được chia ra làm bốn phần nhỏ đã rất thịnh hành trong thời gian tiếng Pàli còn là một sinh ngữ. Ngày nay, mặc dù tiếng Pàli không được đàm thoại trong đời sống hằng ngày, nhưng các hệ thống phân tích ấy vẫn giúp ích cho nhiều học giả muốn nghiên cứu Phật giáo không ít. Theo kinh điển chúng ta được biết thì Đại Đức Sàrìputta đã đạt được bốn Tuệ phân biệt (Catu Patisambhidà Ĩàna) hai tuần lễ sau khi xuất gia, nghĩa là lúc đạt được đạo quả A-la-hán. Và căn cứ theo nghệ thuật phân tích văn pháp (Nirutti Patisambhidà) trong Patisambhidà Magga thì chúng ta có thể tin rằng Đại Đức Sàrìputta không những là tác giả của bộ Niddesa mà Ngài còn là tác giả của Patisambhidà Magga nữa.Trong Mahà Niddesa, có một đoạn kinh mang tên Sàrìputta (còn gọi là kinh Thera Panhà) được chú giải. Đây là phần sau cùng của Attaka Vagga. Mở đầu chú giải này là những kệ ngôn ca ngợi ân đức của đức Bổn Sư và những câu hỏi đặt ra cho Ngài, nhưng Ngài đã ủy thác cho Đại Đức Sàrìputta giải đáp. Riêng bài kệ mở đầu trong kinh Mahà Niddesa là bài kệ tán dương oai lực của đức Phật sau khi Ngài đã lên cõi trời Tavatiôsa nói về Vi Diệu Pháp (Abhidhammà) rồi trở về. Ngoài ra trong kinh Thera Panhà, mặc dù mang tên Sàrìputta, nhưng cũng có nhiều chỗ ghi các câu hỏi của Đại Đức Sàrìputta đặt ra và được đức Phật trả lời. Nhiều học giả còn cho rằng kinh Patisambhidà Magga là thiên khảo luận của Đại Đức Sàrìputta, vì họ nhận thấy nội dung của nó hoàn toàn là khả năng phân tích và tầm tư tưởng thâm sâu của vị Thánh Tăng uyên bác này. Ở đoạn mở đầu, Patisambhidà Magga trình bày những bài khái luận về bảy mươi hai thứ hiểu biết (Nàna) và về những loại kiến thức sai lầm, mà xuyên qua đó chúng ta có thể chiêm ngưỡng được cái trí tuệ vô song của Đại Đức Sàrìputta. Trong bài kinh khai thuyết về sự hiểu biết cũng như trong những chương khác của tác phẩm, người ta đã tìm thấy một số lớn những danh từ giáo lý xuất hiện lần đầu tiên, và chỉ trong Patisambhidà Magga mà thôi. Tác phẩm cũng chứa đựng những lời cắt nghĩa tỉ mỉ về các thuật ngữ và các giáo thuyết đã được giới thiệu tóm tắt trong nhiều phần pháp và trong những bộ xưa hơn nữa của Tam Tạng Kinh (Tipitaka Sutta). Một học giả Cao Tăng Tích Lan, Đại Đức Mahà Nàma người đã viết bài Saddhammappakàsini, chú giải cho tác phẩm, đã không ngần ngại phát biểu: - Nói đến Patisambhidà Magga là nói đến Đại Đức Sàrìputta, vì trong đó nhân vật của Ngài được nhắc đến hai lần: Lần thứ nhất (trong Iddhi Viddha Kathà) như là một bậc đã làm chủ được phép tỏa rộng thanh tịnh (Samàdhivipphàra Iddhi). Lần thứ hai (trong Mahà Pannà Kathà) Ngài như là bậc duy nhất hiểu thấu chiều sâu trí tuệ của đức Phật (Solasa Pannà Niddesa)". Cho nên, chúng ta cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi đọc trong kinh Atthasàlini thấy ghi rằng: "Thuở ấy đức Phật thuyết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong vòng ba tháng ở cõi trời Tàvatiôsa cho mẹ Ngài, Hoàng hậu Màyà, người đã được sanh làm chư Thiên nơi cõi trời ấy nghe. Cứ mỗi ngày, khi trở về thế gian độ ngọ, Ngài hằng thuyết lại cho Đại Đức Sàrìputta về các pháp thâm diệu vi tế. Kinh Atthasàlini còn ghi rõ: "Trí tuệ của đức Thế Tôn dồi dào như nước trong lòng biển cả thì sức hiểu biết của Đại Đức Sàrìputta nhiều như những lượn sóng. Hễ nước chảy đến đâu thì sóng gợn đến đó. Nước bốc thành hơi thì sóng cũng biến thành hơi. Và dưới sức nóng của ánh sáng mặt trời, người lữ hành mệt mỏi trên sa mạc đã nhìn thấy hơi nước bằng những lượn sóng". Có điều là Đại Đức Sàrìputta, sau khi đã thấm nhuần Vi Diệu Pháp bảo của đức Phật rồi, chỉ đem truyền lại cho chư huynh đệ và đệ tử những pháp mà Ngài nhận thấy cần thiết, thực tế và hợp với trình độ hiểu biết của họ. Ngài cũng không quên hệ thống hóa Vi Diệu Pháp ấy cho dễ học, dễ nhớ. Nhiều học giả còn cho rằng: Tất cả Vi Diệu Pháp đều bắt nguồn từ Đại Đức Sàrìputta và ngay cả bộ sách vĩ đại Patthàna cũng là công trình của vị Đại Thánh Tăng này. Về nghệ thuật sắp xếp và thừa truyền lại Vi Diệu Pháp của Đại Đức Sàrìputta, theo Attha sàlinì, chú giải của đoạn Dhamma Sangani, thì Ngài đã tác văn những phần như sau: 1/ Đoạn bốn mươi hai Song Liên Kệ (Duka) trong Suttanta Màtikà sau Abhidhamma Màtikà. Cả hai phần này dẫn đầu bảy cuốn Vi Diệu Pháp, và được giảng giải trong kinh Dhammasanganì. 2/ Kinh thứ tư và cũng là phần sau cùng trong Dhammasanganì là Atthuddhàrakanda đã dùng đề cập về sự cương yếu (hay tóm tắt). 3/ Đặt ra cách giúp trí nhớ để dễ học nằm lòng (Vàcana Magga). 4/ Đánh số cho đoạn Patthàna trong kinh Anupada (thuộc Majjhima Nikàya No III) vì đây là một phần kinh mà đức Phật đã nói về các chiều biến thiện của Tâm thức thiền và những trạng thái đồng sinh tâm mà chính Đại Đức Sàrìputta cũng đã từng trải qua sau khi tiến lên khỏi mỗi giai đoạn của sự đạt thiền. Phương pháp đánh số này là cả một nghệ thuật, vì nhờ đó mà người ta có thể rút ngắn được những phép phân tích qua chi tiết có thể gây lầm lẫn trong ý thức thiền định. Kinh Dhamma Sanganì còn nhắc lại lời khen ngợi của đức Phật: - Đại Đức Sàrìputta quả thật là một bậc am hiểu Pháp bảo rốt ráo. Ông ta không những đủ sức trả lời một số câu hỏi của Như Lai trong vòng một ngày hay một ngày một đêm một cách trong sáng, mà ông ta còn thừa sức để luận đạo với Như Lai cả đến bảy ngày bảy đêm đem về tất cả mọi vấn đề. - Này chư Tỳ-khưu. Có năm tuyệt phẩm mà một trưởng tử của vị vua cai trị toàn thế giới có thể lãnh đạo thiên hạ vững chắc như vua cha, không bị bất cứ một kẻ thù nghịch nào làm đảo lộn. - Vậy năm tuyệt phẩm ấy là gì? Đó là người kế vị bậc Thế giới vương biết rõ thế nào là nhân thế nào là quả, thế nào là điều kiện thiên nhiên, thế nào là điều kiện xã hội và thế nào là trình độ con người. - Này chư Tỳ-khưu. Tương tự như thế. Khi Sa-môn Sàrìputta tròn đủ năm tuyệt phẩm này rồi thì ông sẽ có thể quay bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn như Như Lai đã từng lăn. Bánh xe này không thể bị làm đảo lộn bởi những kẻ ngoại đạo, bởi chư Thiên hay Bà-la-môn giáo, cũng không bởi bất cứ kẻ nào trên cõi đời này. - Này chư Tỳ-khưu. Năm tuyệt phẩm ấy là gì? Là Sàrìputta trong vô lượng kiếp trước đã gieo trồng hạnh trí tuệ, ý thức thế nào là lợi ích cao thượng (Nhân), biết phương pháp giáo huấn (Quả), dùng những biện pháp đúng đắn (Điều kiện thiên nhiên), hiểu rõ lúc nào hợp thời (Điều kiện xã hội), và tùy theo đề tài hội họp (Trình độ) mà ông sẽ nói Pháp. (Anguttara Nikàya V. 132). Ngoài đức Phật ra, những vị Tôn túc khác cũng đã tán dương khả năng của Đại Đức Sàrìputta. Chẳng hạn như Đại Đức Sangìsa (về các kệ ngôn số I. 231-I. 233), Trưởng lão Mahà Kassapa (theo các câu kệ số 1082-1086) và nhất là Tôn giả Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) khi nghe Đại Đức Sàrìputta thuyết xong bài Pháp "Nói về sự vô tội", Ngài đã ngâm mấy câu sau đây để ca ngợi công đức của bậc Thánh Tăng ấy: "Này chư Tỳ-khưu huynh đệ. Thật là kỳ diệu. Thính giác của tôi, khi nghe được Pháp bảo của đạo huynh Sàrìputta thì nó tự nhiên thanh tịnh, ý tưởng tự nhiên no đủ" (Theo Majjhima Nikàya No 5). Nói tóm lại, đức hạnh và khả năng của Đại Đức Sàrìputta đã vô cùng vĩ đại. Vĩ đại không những ngay trong lúc đức Phật còn tại tiền, mà sự vĩ đại ấy cho mãi đến ba trăm năm sau vẫn còn được các bậc Thánh nhân ca tụng. Chúng ta thử đọc lại kinh Milinda Panhà (Mi Lan Đà vấn đạo để xác nhận điều ấy là một sự thực). Kinh Milinda Panhà chép: "Vua Mi Lan Đà đã so sánh Đại Đức Nàgàsena (Na Tiên) với Thánh Tăng Sàrìputta và nói: "Trong rừng Pháp bảo của chư Phật, không có một nhân vật nào khác như Ngài để có thể trả lời những câu hỏi của trẫm, ngoại trừ đức Trưởng lão Sàrìputta, một vị đứng đầu về vạn pháp". Và uy tín vĩ đại đó vẫn còn sống mãi cho đến ngày nay, tạo ra một sự khích lệ người đời bởi những giáo lý đáng ôm ấp của một vị Đại đệ tử Phật. Tiếng vang ấy được bảo tồn phát triển lẫn tàng trữ trong một số những cuốn sách quí nhất của Phật giáo. ĐOẠN CHÓT CỦA CUỘC ĐỜI NGÀI TRẢ MÓN NỢ TRẦN CUỐI CÙNG Bây giờ câu chuyện của chúng ta lại trùng vào lúc Đức Bổn Sư sắp an nghỉ Niết Bàn (Parinibbàna). Theo kinh Mahà Parinibbàna, chương 2, thì khi ấy đức Thế Tôn đang kiết hạ tại làng Beluva gần thành Vesàli. Khi mùa Hạ chấm dứt, Phật đã rời nơi đó, cũng đi trên con đường cũ, trở về Jetavana Vihàra (Kỳ Viên tịnh xá). Phật về tới nơi, đức Trưởng lão Sàrìputta liền đến đảnh lễ đức Thế Tôn rồi lui lại vị trí nhật hành của mình. Nhưng hôm nay, không phải như thường lệ, Ngài chợt có tác ý chẳng muốn làm việc gì khác hơn là hành thiền trọn ngày. Đoạn Ngài lấy chiếc tọa cụ bằng da của Ngài ra, và phủi chân sạch sẽ ngồi lên bằng tư thế kiết già để nhập sâu vào trong A-la-hán Thánh Định. Ấy là dấu hiệu xác thân tứ đại của Ngài đang tiến đến thời kỳ tan rã. Trong khi Ngài sắp quyết định giờ an nghỉ vĩnh cửu của mình, Ngài bỗng nhớ đến đức Phật và muốn biết xem đức Thế Tôn sẽ nhập diệt sau hay trước những Đại Đệ Tử? Và Ngài quán thấy rằng chính những Đại đệ tử sẽ nhập diệt đầu tiên. Sau đó Ngài bắt đầu quán xét thân thể của Ngài và thấy rõ xác thân ô trược ấy chỉ chịu thêm được một tuần lễ nữa. Rồi Ngài tìm hiểu tiếp "Ta sẽ nhập diệt nơi nào đây? Kế Ngài quán thấy: Đức Ràhula sẽ nhập diệt cùng lúc với những vị Thiên Thánh trong từng trời thứ 33, và đức Trưởng lão Kondanna sẽ nhập diệt tại hồ Chaddanta (vùng Hin sàlaya). Sau đó là đến phiên nhập diệt của mình". Khi những điều quán thấy như vậy và chấm dứt thì Ngài bỗng nhớ đến mẹ già, và một tác ý hiếu hạnh lại đến: Ngài nghĩ "Mặc dù bà là mẹ của bảy A-la-hán (bảy anh chị em của Đại Đức Sàrìputta sau khi xuất gia đều đắc quả A-la-hán) nhưng bà không tin tưởng gì đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Không biết hiện tại bà có chút thiện duyên nào hộ trợ để bà có thể đạt đến sư tin kính nơi Tam Bảo ấy hay không? Rồi Ngài dùng Tuệ Nhãn xem xét thấy nhất thời bà đang đủ điều kiện để khai thị được Trực Giác Đạo (Abhisamaya), tức mở đầu cho những bước tiến hướng vào Thánh Lưu. Ngài mừng rỡ vội xem xét tiếp thì thấy người có duyên để cứu độ bà lại chính là Ngài chứ chẳng phải ai ai khác. Vả lại Ngài tự nghĩ "Mình đã bao phen dắt dẫn cả nhân loại lẫn chư Thiên nương ở Tam Bảo mà chứng được Thánh quả, chẳng lẽ mình không thể tẩy trừ nổi tư kiến sai lầm của chính mẹ mình hay sao?". Đoạn Ngài quyết định phải tiếp độ bà để đền đáp ơn sinh dưỡng ra Ngài trong kiếp chót. Nhưng hiện tại sức khỏe của Ngài quả rất kém, bởi Ngài đang chuẩn bị để nhập Niết Bàn. Thời gian còn lại không cho phép Ngài trì hưỡng thêm nữa. Nhất tâm như vậy, Ngài lập tức đến xin phép Đức Bổn Sư để trở về làng cũ Nàlakà. Đồng thời Ngài cũng đến gặp Đại Đức Cunda, yêu cầu người bào đệ này mời 500 vị Tỳ-khưu trong nhóm của Ngài, chuẩn bị y bát để cùng đi Nàlakà. Và Đại Đức Cunda đã làm theo ý muốn ấy. Do đó, chẳng mấy chốc tịnh xá dưới sự hướng dẫn của Đại Đức Sàrìputta bỗng trở nên hoạt động. Chư Tăng thì mạnh ai nấy lo thu gọn chỗ ở, chuẩn bị hành lý. Phần Ngài thì Ngài dọn dẹp căn phòng của mình thật sạch sẽ, rồi Ngài bước ra tận ngoài ngõ đứng nhìn vào nơi ngụ mà nghĩ rằng "Đây là cái nhìn cuối cùng của ta, vì ta chẳng bao giờ trở lại chỗ này nữa. Đoạn cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu, Đại Đức Sàrìputta đến đảnh lễ đức Thế Tôn thêm lần nữa, và Ngài nói: - Bạch đức Thế Tôn. Xin Ngài cho phép đệ tử có đôi lời tán dương ân đức một vị Phật, vì thời gian nhập diệt của đệ tử đã đến. Đệ tử sắp từ bỏ kiếp sống trần tục này. Rồi Ngài tiếp: - Ôi một đấng Cứu Thế. Một Thánh nhân vĩ đại vô biên. Từ kiếp sống trầm luân, nhờ Ngài mà đệ tử đã được giải thoát. Đệ tử sẽ không còn đi và về trong cõi tội lỗi nữa. Và đây là lời phụng bái sau cùng đến Ngài. - Kiếp sống nhục thể của đệ tử đã ngăn lại rồi. Chỉ còn bảy hôm nữa, sau đó Ngũ uẩn này không kéo dài thêm được. Khi thân thể đã nằm xuống, gánh nặng luân hồi của đệ tử cũng không còn nữa. - Ôi đức Bổn Sư! Thực là một hồng ân xin Ngài cho phép đệ tử ca ngợi AÂn Đức của Ngài. Với lần sau cùng sắp nhập Niết Bàn này, đệ tử đã từ bỏ các ràng buộc hiện có để tương lai sẽ bất sinh bất tử. Bây giờ, chúng ta hãy nhắc lại những lời dạy của đức Phật. Nếu đức Thế Tôn trả lời là "Như Lai cho phép ông nhập diệt" những kẻ hẹp hòi thù nghịch sẽ nói rằng: "Ngài tán đồng sự chết". Và nếu Phật trả lời: "Đừng nhập diệt vội" thì họ sẽ bảo Ngài mong muốn sự tiếp tục kiếp vô thường. Do đó, đức Thế Tôn đã không nói gì theo hai cách trên. Nhưng Ngài lại hỏi: - Này Sàrìputta!. Nơi nào sẽ là chỗ nhập diệt của ông? - Bạch đức Thế Tôn! Trong xứ Magadha, tại làng cũ gọi là Nàlakà, và chính căn phòng mà ngày xưa đệ tử được sinh ra sẽ là nơi nhập diệt của đệ tử. Rồi Đức Thế Tôn đề nghị: - Này Sàrìputta!. Hiện ông có đủ thời giờ chăng? Sau lần tiếp xúc này, những huynh đệ của ông trong hàng Tăng lữ sẽ không có dịp để thấy lại một Tỳ-khưu như ông nữa. Vậy ông nên ban bố cho họ một thời pháp cuối cùng đi. Đức Trưởng lão bèn thuyết một bài pháp, từ sự trình bày những uy lực mầu nhiệm của Ngài cho tới mọi chiều sâu chân lý tối thượng, rồi trở lại những tầm thường diễn tả các sự thực về cuộc đời. Cứ như vậy mà Ngài đưa thính giả lên những pháp tận cùng sâu xa rồi lại cắt nghĩa thấp xuống đến những pháp tầm thường thấp thỏi. Ngài đã giảng giải Bảo pháp hết sức trực tiếp theo một phương pháp ước lệ thực tế. Và khi Ngài kết thúc thời pháp, Ngài đã quỳ mọp dưới chân đức Bổn Sư để tỏ lòng tôn kính. Khi ôm đôi chân Chí Tôn của đức Phật, Ngài đã nói: Sở dĩ đệ tử lễ bái những bàn chân này là vì đệ tử đã được đầy đủ sự hoàn toàn của một bậc Giác Ngộ để được sống trong cái thời gian vĩnh cửu và trong một không gian bất hoại (Kalpas). Nguyện vọng duy nhất của đệ tử đã được thể hiện đầy đủ. Kể từ đây về sau, đệ tử sẽ không còn dịp để tiếp xúc hay gặp gỡ đức Thế Tôn nữa. Giờ là phút nghiêm trọng, vì nó là sự thông tri sau cùng giữa các bậc Toàn Giác. Cõi Niết Bàn, một cảnh giới không tuổi thọ, không sanh tử, bình thản, tối thượng lạc, chẳng tạo sinh đau khổ và vô cùng ổn định. Nơi đó hàng trăm ngàn chư Phật đã bước chân vào, và rồi đây đệ tử cung sẽ nhập vào cảnh đó. Sau cùng, đức Trưởng lão khải sám: - Bạch đức Thế Tôn! Từ trước đến giờ nếu đệ tử có hành vi hay lời nói nào làm Ngài không vừa ý, xin đức Bổn Sư hãy tha lỗi cho Đệ tử vì giờ đây là điểm thời gian mà đệ tử sắp ra đi, không bao giờ trở lại. Đức Phật hiền từ trả lời: - Này Sàrìputta!. Không một hành vi hay lời nói nào của ông có thể làm cho Như Lai chẳng vừa ý hay quở trách ông được, bởi ông là một Tỳ-khưu uyên bác, có một sức thông minh vĩ đại, có một trí tuệ tiềm tàng sắc bén, nhanh nhẹn, sáng sủa và quảng đại (viết dựa theo kinh Vangisa Saômyutta No. 7 ) Rồi Phật lại tiếp: - Này Sàrìputta!. Thật là cao thượng khi một Đệ tử chân thành khải sám trước Tôn Sư. Nhưng thực sự lỗi lầm dù chỉ một tiếng nói hay một hành vi vô ý của ông cũng không có nữa. Với lòng từ bi, Như Lai luôn luôn chúc lành đến ông. Bây giờ thì ông có thể lên đường, và hãy tưởng nhớ đến những gì hợp thời. Đến đây chúng ta thấy rằng vào những dịp hiếm có như đã nói. Khi đức Bổn Sư tỏ lời khiển trách các Đại đệ tử của Ngài: Đó không phải là Phật bất bình đối với Đại Đức Sàrìputta về bất cứ chuyện gì. Nhưng ấy chính là Ngài muốn vạch rõ cho đệ tử ưu tú của Ngài thêm con đường nhận định bổn phận, hoặc thêm phương pháp quán sát một vấn đề. Ngay sau khi đức Thế Tôn cho phép, và Đại Đức Sàrìputta đã lìa khỏi đôi bàn chân của đức Phật theo thể thức tôn kính mà Ngài đã thường làm, thì lúc ấy đại địa cầu đã làm cho nước trong năm châu bốn biển dao động như chứng tỏ rằng: "Mặc dù tôi đã chịu đựng được những dãy núi điệp trùng thắt lên thân thể tôi, như ngọn Meru hùng vĩ, như thành sơn cao ngất Cakkavàla và Himavantu (Hy Mã Lạp Sơn) chẳng hạn tôi cũng không chịu nổi ngày hôm nay, một ngày mà giới đức từ bi vô lượng đã được qui tụ". Tiếp theo đó, bỗng có một tiếng sấm đầy uy vũ vang lên trên tất cả các từng trời, và không biết một dãy mây khổng lồ từ đâu hiện ra che áng hầu hết không gian, rồi một trận mưa lịch sử đã đổ ào trên mặt đất. Đức Thế Tôn lại nghĩ: "Giờ đây ta sắp cho phép một vị Chưởng Pháp như Sàrìputta khởi hành". Rồi Ngài rời khỏi chỗ ngồi của mình đến một căn phòng đầy hương thơm và đứng trên một tấm thảm ngọc. Đại Đức Sàrìputta đi xung quanh căn phòng ấy đến ba lần giữ bên mặt của Ngài về hướng đức Phật và làm những động tác tôn kính tại bốn nơi khác nhau. Khi ấy thì một ý nghĩ phát lên trong trí óc Ngài. "Một thời gian vô lượng và một không gian bất tận không biết đã trải qua bằng bao trăm ngàn đại kiếp (Kalpas) chính là giờ phút này. Khi ta mọp xuống dưới chân Đức Phật ANOMADASSI và phát đại nguyện được gặp vị Thích Ca Như Lai. Nguyện vọng ấy đã được thể hiện và ta đã gặp Ngài. Lần gặp gỡ đầu tiên ta đã được Ngài thọ ký. Giờ đây là lần chiêm ngưỡng sau chót của ta đối với Ngài vì trong tương lai sẽ chẳng bao giờ có nữa". Sau cùng, bằng một cử chỉ chắp tay đưa lên cao đầy tôn kính, Đại Đức Sàrìputta đã dời gót khởi hành, mắt nhìn về hướng đức Phật với một tư thế bái biệt. Ngài bước đi thụt lùi như vậy cho đến khi nào không còn trông thấy đức Thế Tôn nữa. Và do đó, lại một lần nữa đại địa cầu cũng không thể chịu được, đã rung động làm cho nước bốn bể năm châu nổi sóng. Kế đó, đức Phật bèn nhắn nhủ giữa những hàng Tăng chúng: "Này chư Tỳ-khưu! Các ông hãy đi đi! Đi tiễn chân vị Đại sư huynh của mình". Phật vừa nói xong thì cả bốn nhóm Tăng Lữ có mặt lập tức nối gót Đại Đức Sàrìputta ra khỏi Kỳ Viên tịnh xá, để lại một mình Phật ở đó. Riêng Đại Đức Ànanda là người sẵn sàng đưa tiễn đầu tiên, và là người tỏ vẻ u buồn nhiều nhất. Ngài không ngớt thốt ra những lời thống thiết. (Như đã nói ở hai trang 44-45). Dân chúng sống trong thành Xá Vệ cũng vậy khi nghe tin này, họ đồng kéo nhau ra khỏi nhà tiễn đưa Đại Đức Sàrìputta như một dòng suối dài bất tuyệt. Họ còn mang cả những vật thơm và tràng hoa để tỏ dấu chịu tang nữa. Cả đoàn dân chúng đi tiễn chân đức Trưởng lão, người nào cũng tỏ vẻ thổn thức và rơi lệ. Đại Đức Sàrìputta sau đó đã khuyên nhủ đám đông dân chúng rằng: - Hỡi quí Phật tử! Đây là con đường mà không ai tránh khỏi. Rồi Ngài yêu cầu họ trở về. Còn đối với chư Tỳ-khưu không cùng đi với Ngài đến Nàlakà, Ngài lại nhắc nhở: - Xin các vị hãy trở về. Điều bần đạo mong muốn nhất là từ nay về sau mong các vị đừng dễ duôi trong việc chăm sóc đức Phật. Cứ như thế, Ngài đã khuyến dụ cả Tăng lẫn tục lần lượt trở lui. Sau cùng chỉ còn lại nhóm đệ tử riêng của Ngài mới cùng Ngài lên đường theo ý định. Tuy nhiên, trong số đó vẫn còn những Tăng sĩ đang thổn thức, vừa đi vừa kể lể: - Trước đây, vị Đại Đức của chúng ta dù có đi bao nhiêu chuyến hành trình rồi cũng trở về, nhưng lần này thì chuyến đi lại là lần ra đi không bao giờ trở lại. Đức Trưởng lão nghe được liền khuyên họ rằng: - Này các huynh đệ! Các vị hãy giữ tâm thanh tịnh, vì sự luyến tiếc bất cứ hình thức nào của thế gian cũng đều vô nghĩa mà chỉ tạo thêm cho mình cái khổ. Dù sức đang yếu nhưng Ngài đã phải giảng giải cho họ nghe thật nhiều lần họ mới bình tâm. Suốt cuộc hành trình, Đại Đức Sàrìputta đều nghỉ lại một đêm ở bất cứ nơi nào có người nghinh đón. Và như vậy trong một tuần lễ, Ngài đã gieo rắc ân huệ giải thoát cho khá nhiều kẻ hữu duyên trong chuyến gặp gỡ sau cùng này. Khi đến Nàlakà vào một buổi chiều, Ngài bèn dừng chân gần một cây đa ở cổng làng. Thình lình lúc ấy có người cháu trai của Ngài nhân việc đi ra ngoài nhìn thấy. Người ấy vội đến đảnh lễ đức Trưởng lão. Xong Ngài bèn hỏi: - Thân mẫu của bần Tăng có ở nhà không? Người ấy trả lời: "Bạch Ngài có ạ!". Đức Trưởng lão liền nói: "Vậy phiền ông đi thông báo giùm cho bà biết là bần Tăng sắp về và nếu bà có hỏi chi tiết thì hãy bảo với bà rằng bần Tăng sẽ ở lại trong làng này chỉ một ngày mà thôi! Xin bà cứ sửa soạn căn phòng mà trước đây bần Tăng đã chào đời, và sắp xếp chỗ ở cho năm trăm vị Tỳ-khưu khác nữa nhé". Ông Uparevàta, tên người cháu của Đại Đức Sàrìputta, sốt sắng đến gặp mẹ Ngài và báo rằng: - Thưa bà Ngài! Sàrìputta đã về. Nghe xong bà liền hỏi: "Hiện giờ ông ấy ở đâu?". - Thưa bà! Ngài đang ở tại cổng làng. - Ông ta đi một mình hay có ai nữa không? - Thưa bà, Ngài về với năm trăm vị Tỳ-khưu. Khi bà hỏi "Tại sao ông ta về" thì người cháu bèn thuật lại những lời nói của đức Trưởng lão. Bà liền nghĩ "Tại sao ông ta yêu cầu mình cung cấp chỗ ngụ cho rất nhiều người như thế? Phí bỏ thời gian còn trẻ để làm một Sa-môn, bộ khi về già ông ta muốn trở về làm cư sĩ hay sao?". Nhưng rồi bà cũng sắp đặt chỗ ngụ đầy đủ như vậy cho đức Trưởng lão và những vị Tỳ-khưu kia. Bà còn đốt nhiều cây đuốc và trao lại cho người cháu đem đến đức Trưởng lão và chư Tăng để soi đường đi về nhà. Chẳng mấy chốc, Đại Đức Sàrìputta cùng với chư Tỳ-khưu đã vào đến sân nhà bà và Ngài tự ý bước thẳng vào căn phòng cũ của mình. Sau đó Ngài nhân danh mẹ Ngài mời tất cả chư Tỳ-khưu đến những chỗ dành riêng cho họ để nghỉ ngơi. Đại Đức Sàrìputta khi ấy chợt cảm thấy một sự đau đớn lan tràn cả thân xác, Ngài vội vã lên nằm trên chiếc giường của mình và nhập ngay vào Đại Định. Những Tỳ-khưu có bổn phận hầu hạ Ngài liền túc trực quan sát. Họ thấy da mặt Ngài lúc đỏ lúc xanh, nhưng đức Trưởng lão vẫn nằm im thiêm thiếp, phong thái vẫn bình an. Kế đến từ hạ thân của Ngài thải ra một chất nước. Thì ra Ngài đang bị bịnh đi tả hoành hành. Những học trò của Ngài phải thay phiên nhau tẩy uế. Cứ một chiếc thùng đưa ra thì một thùng khác trao vào. Người đàn bà Bà-la-môn thoạt đầu có vẻ đố kỵ những vị Tỳ-khưu kia, nhưng khi thấy họ chăm sóc con bà một cách tận tình và kính trọng thì đâm ra có hảo cảm. Rồi càng theo dõi bịnh tình của Đại Đức Sàrìputta bà càng lo sợ. Lúc bấy giờ chính bà lại nhận thấy sự có mặt của năm trăm vị Tỳ-khưu kia quả là một điều cần thiết cho bà. Trong kinh còn thuật lại rằng: Lúc đó có một chuyện lạ xảy ra: Bốn vị Thiên Vương cùng hỏi lẫn nhau "Hiện tại không biết vị Đại A-la-hán, bậc thông hiểu vạn pháp kia đang trú ngụ nơi đâu?" Cả bốn vị Phạm Thiên ấy đã lập tức thấy rõ Ngài đang ở tại Nàlakà, trong căn phòng Ngài được sinh ra trước đây. Ngài lại đang nằm trên giường bịnh và sắp nhập Niết Bàn. Liền đó họ cùng bảo nhau giáng trần để chiêm bái Ngài lần chót. Khi bốn vị Thiên Vương đã đến phòng bịnh của Đại Đức Sàrìputta, họ tự động dùng thiên lực làm cho cơn đau của đức Trưởng lão giảm xuống, rồi thỉnh Ngài xả thiền để xin lời chỉ dạy. Đức Trưởng lão hỏi: - Các ông là ai? - Bạch Ngài! Chúng tôi là Tứ Đại Thiên Vương. - Tại sao các ông đến đây? - Chúng tôi muốn hầu Ngài trong thời gian bệnh hoạn. Nghe thế Đại Đức Sàrìputta bèn nói: - Xin để mặc tôi. Vì tôi đã có học trò chăm sóc ở đây rồi, các ông có thể đi đi. Khi Tứ Đại Thiên Vương rời khỏi thì có vị vua Trời khác tên Sakka, cũng trong một vẻ tôn kính như thế, lại hiện đến thăm Ngài. Tiếp theo là những vị Đại Phạm Thiên cũng đến vấn an, nhưng tất cả đều được đức Trưởng lão bảo trở về như trước. Người đàn bà Bà-la-môn, mẹ Ngài, khi thấy những vị chư Thiên đến rồi đi như thế, bèn tự hỏi: "Họ là ai vậy kìa? - Ai mà đến tôn kính con ta như thế rồi lại đi?". Bà tới tận cửa phòng của đức Trưởng lão để hỏi thăm Đại Đức Cunda về bịnh trạng của Ngài. Đại Đức Cunda vốn thấu rõ ý muốn của Đại Đức Sàrìputta từ trước nên bước vào trong bạch với Ngài rằng: - Bạch đức Trưởng lão. Vị đại Tín nữ đã đến. Đại Đức Sàrìputta liền mời bà vô và hỏi: - Vì sao thân mẫu lại đến đây vào giờ bất thường này? Bà trả lời: - Này con! Thân mẫu đến để thăm con. Con hãy nói cho thân mẫu biết những người vừa rồi đến thăm con đầu tiên là ai vậy? - Thưa thân mẫu! Đó là bốn vị Đại Thiên Vương. Nghe thế bà liền hỏi: - Như thế thì ông còn cao quí hơn những người đó nữa ư? Đức Trưởng lão đáp: - Họ chỉ là những bậc hộ trì Phật pháp. Khi đức Bổn Sư đản sinh họ chính là những kẻ đến hầu hạ đầu tiên. Trong giáo lý Giải Thoát, họ ví như những cận vệ quân luôn luôn có uy quyền trong tay để bảo vệ một vị Phật Tổ. - Sau khi họ đi rồi thì vị đến kế tiếp là ai thế? - Thưa thân mẫu. Đó là vua Trời Saka. - Này ông con yêu quí! Đối với đức vua Trời kia, ông có cao thượng hơn không? Đại Đức Sàrìputta trả lời: - Thưa thân mẫu! Ông chỉ như vị Sa di là người theo hầu hạ và mang vác những vật dụng của một Tỳ-khưu. Khi đức Bổn Sư từ trên cõi trời thứ ba mươi ba (Tàvatimsa, Đao Lợi) trở về vị trời Sakka đã mang bát và y phục của Ngài để tiễn Ngài từ Thiên giới đến cõi trần với một lòng tôn kính. Bà lại hỏi tiếp: - Và khi vị trời Sakka đi rồi, những vị đến sau đã dùng hào quang làm sáng cả căn phòng này là ai vậy? - Thưa tín nữ thân mẫu. Đó là các vị Giáo chủ, những Đại Phạm Thiên, những Thiên Sư của chính thân mẫu đấy. - Vậy thì ông là người cao cả nhất. Này ông con quí mến của mẹ, ông còn cao quí hơn những Đại Phạm Thiên mà xưa nay thân mẫu hằng ngưỡng mộ ư? - Vâng, thưa thân mẫu. Vào ngày đức Bổn Sư ra đời, thân mẫu nào biết rằng chính bốn vị Đại Phạm Thiên ấy đã đón rước Ngài trong một vuông lụa đầy hào quang vàng chói. Khi nghe vậy, mẹ Ngài bèn nghĩ: "Nếu oai lực của người con trai mình như thế thì oai lực vô biên của đấng Bổn Sư ông còn to lớn biết dường nào?". Trong khi bà đang phân xét như vậy, bất chợt một sự kính ngưỡng nơi Tam Bảo bỗng phát sinh và phỉ lạc tràn ngập cả tâm tư bà. Đức Trưởng lão quán thấy biết rằng sự thỏa thích và niềm tin đã bừng lên trong tâm hồn người mẹ rồi, đây chính là lúc mà Ngài phải thuyết pháp để báo ơn sinh thành dưỡng dục. Ngài hiền hòa hỏi: - Này thân mẫu tín nữ. Thân mẫu đang suy nghĩ gì vậy? Bà trả lời: - Thân mẫu đang suy nghĩ: "Nếu con trai của mình mà có phước hạnh như thế thì ân đức của Phật Thích Ca Cồ Đàm còn to lớn biết là dường nào?". Đại Đức Sàrìputta liền tiếp lời: - Ngay giây phút đức Bổn Sư ra đời, ngay giờ khắc Ngài chứng được quả giải thoát vĩ đại và sau khi đạt đến sự Toàn Giác rồi, Ngài bắt đầu Chuyển pháp luân. Trong ba lần này có hàng vạn hiện tượng cõi đời phải rung chuyển và chấn động. Không có một đấng nào có phước đức ngang hàng với đức Phật. Không có một đấng nào có sự an trụ, có trí tuệ, có hạnh giải thoát, có một độ thuần thục và một sức nhận thức pháp Giải Thoát cao hơn Phật. Tiếp theo, Đại Đức Sàrìputta liền cắt nghĩa cho bà một cách chi tiết những lời tán dương vừa rồi. Chẳng hạn như Ngài nói: - Thực ra, chỉ có đức Thế Tôn mới là Đấng Đại Phúc hơn hết. Vì Ngài đã tròn đủ mười ân đức như: Ứng Cúng (Araham), Chánh Biến Tri (Sam màsambuddho), Minh Hạnh Túc (Vijjàcaranasam panno), Thiện Tuệ (Sugato), Thế Gian Giải (Lokavidù), Vô Thượng Sĩ (Anuttaro), Điều Ngự Trượng Phu (Purisadammasàrathi), Thiên Nhơn Sư (Satthàdeva-manussànaô), Phật (Buddho), Thế Tôn (Bhagavà) Cứ như thế Ngài đã lần lượt làm cho bà thấu hiểu hết Ân đức Phật đến Ân đức Pháp, hết Ân đức Pháp đến Ân Đức Tăng. Khi người con cao thượng của bà sắp chấm dứt bài pháp, cụ bà Bà-la-môn tín nữ kia liền đắc quả Nhập Lưu (Tu Đà Hườn) một cách không dư sót. Và bà nói: - Này người con đáng kính của mẹ! Này Ngài Upatissa, tại sao trước đây ông không làm như thế để dắt dẫn mẹ? Tại sao trong suốt những năm qua ông không ban bố cho mẹ một sự hiểu biết bất tử này? Đức Trưởng lão bèn nghĩ: "Giờ thì ta đã đền đáp xong công ơn sinh thành của người mẹ ta rồi, người thiếu phụ Bà-la-môn mà trước đây dân làng ai cũng tôn kính và đều gọi là Rùpa Sàri. Chính nhờ bà, ta đã nên người. Pháp bảo mà ta vừa giảng cho bà thế là đủ". Đoạn Ngài yêu cầu bà để Ngài nằm yên trong chốc lát. Khi bà đã rút lui, Ngài bèn hỏi Đại Đức Cunda: - Này Pháp đệ! Không biết bây giờ là canh mấy rồi nhỉ? - Bạch Ngài! Trời chỉ mới vừa rạng đông. Đức Trưởng lão liền yêu cầu: - Xin Pháp đệ hãy bảo chư Tỳ-khưu tập hợp lại. Và lúc chư Tỳ-khưu tề tựu đông đủ, Ngài bèn nói với Đại Đức Cunda rằng: - Hãy khiêng tôi đem đặt vào phòng khách. Đại Đức Cunda liền vâng lời và làm theo ý muốn của Ngài. An vị xong, đức Trưởng lão bèn tuyên bố với chư Tỳ-khưu: - Này các huynh đệ. Trong bốn bốn năm, bần đạo đã cùng sống và du hành truyền đạo với các vị, nếu bần đạo có một hành vi hay lời nói nào không vừa lòng, xin chư huynh đệ bỏ lỗi cho tôi nhé. Tất cả đồng trả lời: - "Bạch Ngài, dù một sự mích lòng nhỏ nhất đi nữa cũng chẳng bao giờ phát sanh giữa Ngài với chúng tôi, ai đã noi gương Ngài, theo chân Ngài dù Ngài khuất bóng đi nữa, họ cũng còn ghi khắc hình ảnh của Ngài trong tâm khảm và như vậy Bạch Ngài: Nếu trước đây chúng tôi có lỗi lầm gì xin Ngài từ bi tha thứ! ". Nói xong đức Trưởng lão liền góp nhặt những y phục xung quanh Ngài, rồi tự mình phủ lên mặt, nằm xuống nghiêng mình về phía phải. Sau đó, ngay khi đức Bổn Sư đang sắp sửa nhập vào vô dư Niết bàn (Maha parinibbana) thì Ngài bèn nhập vào trong cửu phẩm đại định theo cách tiến và thoái rồi nhiếp lại từ nhất thiền trở lên cho tới đệ tứ đại định. Ngay giây phút Ngài đạt đến mức định ấy, thì vừng thái dương cũng vừa ló dạng ở chân trời và Ngài đã hoàn toàn nhập diệt vào Niết bàn vĩnh cửu nơi không còn dư sót bất cứ một sự dính mắc đau khổ nào. Hôm ấy là ngày trăng tròn tháng Kattika theo dương lịch là ngày 15 tháng 10. Cụ Bà Bà-la-môn khi chưa hay Ngài đã nhập diệt suy nghĩ rằng: Không biết bịnh tình của ông con ta ra làm sao? Bà ngồi dậy đi vào trong phòng của đức Trưởng lão đặt tay lên hai chân của Ngài. Lúc đó Bà mới biết rằng Ngài đã nhập diệt. Bà liền quì xuống dưới chân Ngài than khóc: "Ôi người con trai yêu quí của mẹ! Trước đây mẹ đã không biết được phúc đức vô lượng của người. Vì thế mẹ không tạo được của cải bất diệt trong nhà này, và mẹ đã không biết nuôi nấng, giúp đỡ đến hàng trăm vị Sa-môn chân chánh như giờ đây. Mẹ không tập được hạnh quí không xây cất được tịnh xá. Bà cứ than thở như vậy cho đến khi mặt trời mọc. Lúc vầng thái duơng vừa soi rõ cả không gian, bà mới cho mời những thợ chạm danh tiếng và ra lệnh mở kho của báu để lấy ra những khối vàng nặng nhất hầu chi dụng, và chế tạo đồ trần thiết trong tang lễ. Sau đó là những cột phướn và những cửa tam quan được dựng lên ở trung tâm ngôi làng. Nơi ấy, vị tín nữ đã cho cất một ngôi nhà tế toàn bằng các loại gỗ quí. Ở xung quanh ngôi nhà tế, bà cho kiến tạo một số tiểu đình giao thông nhau bằng những hành lang rộng rãi, có mái che, và hai bên có những bao lơn bắt dính vào nhiều cây cột khảm vàng thật đẹp. Đoạn cuộc tế lễ bắt đầu. Người tham dự chẳng những rất đông họ hàng dân chúng mà còn có cả các hàng chư Thiên lẫn lộn. Khi số người vĩ đại ấy đã lễ bái theo nghi thức đủ một tuần lễ, họ bèn dựng lên một lò thiêu cao trọng bằng tất cả các loại trầm có mùi thơm quí nhất. Nhục thể của Đại Đức Sàrìputta được đặt lên giàn thiêu ấy và châm lửa đốt bằng những bó mồi do những rễ cây Usiva làm ra. Suốt đêm hỏa thiêu ấy, tất cả mọi người tham dự đều được nghe chư Tăng thay phiên nhau thuyết pháp. Đức Trưởng lão Anuruddha cũng có mặt trong đêm lễ hỏa thiêu này. Ngài chính là người đã đích thân dùng nước hoa dập tắt ngọn lửa sau cùng. Đại Đức Cunda bèn góp nhặt những di hài còn lại và đặt vào trong một vuông vải lọc. Trong khi làm như vậy, Đại Đức Cunda lại nghĩ "Ta không nên lưu lại tại đây lâu vì lúc này là thời gian Đức Bổn Sư cũng chuẩn bị Nhập Diệt. Ta phải đi báo cáo cho đấng Toàn Giác biết sự nhập diệt của Đại sư huynh ta, vị đệ tử mà Ngài gọi cái tên Sàrìputta như một người thông hiểu vạn pháp". Liền đó, Ngài lấy vuông vải lọc chứa đầy di hài Thánh thể, đồng thời với những di vật bình bát và y phục của Đại Đức Sàrìputta, rồi đến thành Sàvatthì (Xá Vệ). Trên đường đi, chỉ có ban đêm là Đại Đức mới dừng chân tạm nghỉ. Trên đây là những mẫu chuyện đã được ghi lại trong chú giải kinh Cunda, thuộc Satipatthàna SAMYUTTA. Kinh này còn được bổ khuyết do những song kệ trong chú giải bộ Mahà Parinibbàna Sutta. Sự tự thuật còn giữ lại trong kinh Cunda được trích dịch như sau: KINH CUNDA (SATIPATTHÀNA SAMYUTTA 23) Có một lần Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) trong thành Xá Vệ (Sàvathì). Khi ấy Đại Đức Sàrìputta lại ngụ trong làng Nàlaka, xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) và đang bị bịnh hoạn dày vò thân thể trầm trọng. Vị Sư đệ tên Cunda là người đã hầu cận Ngài. Sau khi Đại Đức Sàrìputta tịch diệt, ông Cunda vội nhặt tất cả những di vật như bình bát, y phục của Đại Đức Sàrìputta đem đến thành Sàvatthì, vào tận trong rừng Jeta công viên của ông, bá hộ Cấp Cô Độc. Khi đến nơi, ông đi thẳng đến Đại Đức Ànanda để thông báo trước tiên, và lúc chào kính xong, ông ta bèn bạch với Đại Đức Ànanda rằng: - Bạch Đại Đức . Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt rồi, và đây là bình bát và y phục của Ngài để lại. Đại Đức Ànanda liền buồn bã đề nghị: - Này đạo hữu Cunda! Về việc này chúng ta nên đến yết kiến đức Thế Tôn. Biết đâu khi hầu Ngài, chúng ta sẽ chẳng được nghe đức Phật dạy dỗ nhiều điều hữu ích? Đại Đức Cunda lập tức tán đồng: "Vâng Bạch Ngài!". Sau đó họ cùng đến ra mắt đức Thế Tôn. Khi đã đảnh lễ đức Bổn Sư xong, họ ngồi sang một bên và Đại Đức Ànanda liền bạch với đức Thế Tôn rằng: - Bạch đức Bổn Sư. Đạo hữu Cunda thuật với đệ tử là Trưởng lão Sàrìputta đã nhập diệt và đây chính là bình bát và y phục của Ngài. Rồi Đại Đức Ànanda buồn bã tiếp: - Ôi đức Thế Tôn! Khi đệ tử nghe tin Đại Đức Sàrìputta đã nhập diệt, thân thể đệ tử trở nên bàng hoàng yếu ớt. Mọi vật chung quanh trở nên mờ hẳn đi, và đối với đệ tử chúng không còn là những vật hữu dụng nữa. Đức Phật dạy: "Này Ànanda!. Sao lại như vậy? Khi Sàrìputta nhập diệt, ông ấy đã lấy đi của ông phần phước đức hay phần an trụ nào không? Ông ấy đã chia của ông phần trí tuệ hay phần giải thoát nào không? - Bạch Đức Thế Tôn, không phải như thế. Khi Đại Đức Sàrìputta nhập diệt, Ngài không lấy của đệ tử một phần phước đức, an trụ trí tuệ hoặc pháp giải thoát nào cả. Ngài cũng không lấy của đệ tử một phần hiểu biết và nhận rõ con đường giải thoát nữa. Nhưng bạch Phật Đại Đức Sàrìputta là một vị cố vấn trí tuệ hoàn toàn của đệ tử. Đại Đức đã giảng giải Pháp bảo một cách trọn vẹn, chính Ngài là đấng dẫn dắt các hàng Tỳ-khưu lên Thánh đạo. Chúng đệ tử cũng còn nhớ rõ sự huấn pháp của Đại Đức nó linh hoạt, hữu lạc và thực dụng làm sao. - Này Ànanda!. Trước đây Như Lai chẳng dạy cho ông rồi hay sao? Tất cả bản chất của mọi vật gần gũi và yêu mến đối với ta, trước sau gì cũng phải chịu một sự chia lìa, và do đó đệ tử của Như Lai phải quán tâm về pháp ấy chứ? Những hình thức nào được sinh ra, được lớn lên, được đoàn tụ, hẳn đều là nguyên nhân của sự tan rã, sự bại hoại. Những trạng thái đó đến với ta không có báo trước như thế nào thì cũng sẽ bỏ đi, không cần ta như thế ấy! - Thực ra, ta muốn bám víu cũng không bao giờ được. Này Ànanda!. Ví như một cành cây đến lúc không chịu nổi sức nặng của nó, tự nó phải gãy đổ, dù cho thân cây có cứng rắn đến đâu. Sàrìputta cũng vậy, ông sẽ nhập diệt, tức là ông đã rời khỏi cộng đồng Tăng lữ dù cho cộng đồng ấy có vĩ đại, có mạnh mẽ đến đâu. Này Ànanda!. Như Lai xin lập lại cho ông ghi nhớ rằng: Mọi pháp hành thực tiễn hay không thực tiễn, mọi hình thức vi tế hay thể khối sinh có mặt trên cõi đời này, tập hợp, phát triển rồi thì phải tiêu hoại. Chúng đã đến như thế nào thì sẽ đi như thế đó. Đây chính là pháp Vô Thường vậy! - Này Ànanda!. Do đó ông hãy tạo cho mình một hòn đảo rắn chắc để khỏi chìm đắm trong bể khổ. Ông nên từ bỏ những trạng vật vô thường. Ngay cả thể xác của ông, ông cũng nên cảnh giác để diệt trừ những pháp dễ duôi trên con đường xây đời vĩnh cửu. Phật giáo sẽ là hòn đảo rắn chắc, sẽ là động lực thoát khỏi sự vô thường, sẽ là bước chân liên tục để đưa ông vào cảnh giới bất tử. Chú giải còn ghi rõ một đoạn thuật sự như thế này: Khi ấy đức Bổn Sư đưa thẳng cánh tay của Ngài để nhận lấy vuông vải lọc chứa di hài của Đại Đức Sàrìputta do Tỳ-khưu Cunda đặt vào tận bàn tay của Ngài và Nói: - Này chư Tỳ-khưu. Đây là những di vật có màu sắc ngọc trai của một Tỳ-khưu mà trước đây không lâu đã xin phép Như Lai để nhập diệt. Ông là người đã tu tập để hoàn toàn trong một thời gian vô lượng và trải qua hằng trăm ngàn đời kiếp. Công đức ấy đã tạo ông thành một bậc Sa-môn vô cùng xứng đáng. Ông là người đã đạt được quả vị gần nhất của Như Lai. Và chỉ có ông mới được như thế. Trừ Như Lai ra không ai có thể bì kịp trí tuệ của ông, vì trí tuệ ấy đã được tạo ra do công trình hàng vạn kiếp. Sự vĩ đại của trí tuệ ông có thể ví như ánh sáng mặt trời, lúc nào cũng nhanh chóng tinh anh và tiềm tàng vô cùng tận. Vị Tỳ-khưu ấy bao giờ cũng tri túc, không ham thích dù chỉ là sự ham thích của những bậc Thánh nhân, không ưa tạo hợp, đầy nghị lực và là người dẫn dắt khả kính của nhiều bạn đồng đạo, bởi luôn luôn biết tẩy trừ những điều tội lỗi của kẻ khác. Ông là người đã đi vào trong cuộc sống không gia đình, chối bỏ những của cải ham chuộng của thế gian mà ông có thể hưởng được như một người thừa tự. Gia tài bá hộ của cha mẹ ông không phải chỉ to lớn gần đây, mà thực sự đã giàu có qua hằng năm trăm đời. Ông chính là một Sa-môn đích thực và trong vô lượng kiếp qua ông đã thực hành pháp Ba la mật của Như Lai. Ông đã song hành và kiên nhẫn như quả đất. Với ông, tất cả đều vô hại, nhưng với ác pháp ông ví như một con vật chúa đoàn có đôi sừng bén nhọn, sẵn sàng ngăn chận những kẻ xấu có thể gây nguy hại cho đồng loại của mình. Ôi cao quí thay! Một Tỳ-khưu trong Phật giáo bao giờ cũng có một tư tưởng khiêm nhượng, người con trai cứu thế chính là ông vậy. - Này chư Tỳ-khưu! Các ông hãy xem đây! Di hài của Đại Đức Sàrìputta, một vị Thánh Tăng đầy trí tuệ, đầy quảng đại, trong sáng, linh hoạt, sắc bén và tiềm tàng. Sự tri túc, ít ham muốn của ông với đức tính thích ẩn dật, không ưa động hợp và đầy nghị lực đã làm cho ông trở nên một vị cố vấn lỗi lạc đối với những đồng đạo, khi họ còn tiến bước trên con đường giải thoát. Tiếp theo, đức Phật còn đọc những câu kệ sau đây để ca ngợi vị đệ tử vĩ đại của Ngài: Trong một trăm ngàn kiếp sống qua, người đã năm lần thoát ly xiềng xích gia đình đem thân hành đạo thiện. Người luôn luôn giữ tâm mát mẻ đối với những kẻ xung quanh, tình thương bao giờ cũng tỏa rộng. Căn thức được kềm chế rồi thì linh hồn trở nên cao thượng và ngày nay cũng như mãi mãi về sau này đều được mọi người tôn kính. Dù ông Sàrìputta đã nhập diệt, tấm gương sáng chói biểu lộ sức mạnh kiên nhẫn của ông, người sau chỉ còn biết ví như quả đất. Trong trí tuệ của ông chỉ có một con đường duy nhất, con đường phát tiết lòng từ bi , thiện cảm và mát mẻ một cách êm ả. Quả địa cầu này đã bền vững song song với ông giờ đây vẫn còn nâng đỡ con người đáng tôn kính ấy. Chư Tỳ-khưu hãy hướng về con đường Sàrìputta mà đi, mặc dù giờ đây ông đã nhập diệt. - Người ấy thuở thiếu thời đã xa hẳn gia đình chỉ biết giữ trong tâm hồn mình một sự ôn hòa khiêm nhượng, tìm kiếm một thành trì kiên cố và bình thản bước mãi trên một lộ trình duy nhất. Sống cuộc đời khất sĩ, từ nơi này đến nơi khác, không màng danh lợi, không phải để cái tên Sàrìputta được người sau tôn thờ, mà là để soi sáng đồng loại đang vướng mắc trong vòng đau khổ. Nếu có ai mà suốt đời dù sống giữa đô thị náo nhiệt hay trong rừng sâu thăm thẳm cũng chẳng làm phương hại đến một chúng sanh thì người đó chính là Sàrìputta. Chư Phật đã ví ông như một con vật chúa đoàn uy vũ, suốt đời chỉ biết thương hàng đồng loại. Người đã thắng tất cả, hoàn toàn làm chủ lấy mình dù đã tịch diệt, người sau có tôn thờ đến đâu cũng không xứng đáng được. Sau khi đức Thế Tôn đã ca ngợi hạnh phúc vô lượng của Đại Đức Sàrìputta như thế Ngài bèn cho xây một Bảo Tháp để tôn thờ di hài ấy. Tiếp đó Phật ngỏ ý với Đại Đức Ànanda. Ngài muốn đi đến thành Ràjagaha (Vương Xá). Đại Đức Ànanda bèn thông báo cho chư Tỳ-khưu hay để chuẩn bị hành trình với đức Thế Tôn. Khi đức Phật vừa đến nơi thì Mahà Moggallàna Trưởng lão cũng đã nhập diệt. Đức Phật, một lần nữa, lại nhận những di hài như trước và dạy các hàng Phật tử lập Bảo Tháp phụng thờ. Xong xuôi Ngài khởi hành từ thành Ràjagaha, qua nhiều đoạn đường, đi về hướng sông Ganga để đến xứ Ukkacela. Nơi đó Phật dẫn chư Tỳ-khưu đến bờ sông Ganga để thuyết một bài pháp nói về sự an nghỉ Niết Bàn của hai Đại Đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna mà chư Thánh Tăng sau này gọi là Ukkacela Sutta. KINH UKKACELA Sau khi hai Trưởng lão Sàrìputta và Mahà Moggallàna nhập diệt chẳng bao lâu thì có một lần khi đức Thế Tôn đang ngụ tại xứ Vajji, trong vùng Ukkacela, gần bờ sông Ganga (Hằng Hà). Nhân vào lúc đức Phật vừa an tọa ngoài trời và có chư Tỳ-khưu ngồi xung quanh, đức Thế Tôn bèn bảo các đệ tử im lặng rồi thuyết rằng: - Này các vị Tỳ-khưu! Sự hội họp này ngày hôm nay dường như có vẻ trống rỗng, vì hiện tại Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã nhập diệt rồi. Không phải Như Lai cho đó là một sự trống rỗng thường tình vì dù sao cũng có chư Tăng hội họp nơi đây. Cũng chẳng phải Như Lai đang thương tiếc Sàrìputta và Mahà Moggallàna, hay nghĩ đến những nơi nào mà hai Đại đệ tử ấy đã ngụ mà Như Lai cảm thấy trống rỗng bởi lòng từ mẫn đối với chư vị đó. Hiện tại xác thân Như Lai cũng yếu chẳng bao lâu sẽ nhập Niết Bàn. Như Lai làm sao đủ sức khỏe để dắt dẫn toàn thể Tăng chúng đoạt được mục đích mong muốn? Phải chi Sàrìputta và Mahà Moggallàna còn hiện tiền thì con đường tiến tới giải thoát của chư đệ tử có thể đảm bảo hơn. Trong quá khứ, những bậc Độc Giác, những bậc Toàn Giác và những đấng Thế Tôn cũng đều có những cặp đệ tử ưu tú như Như Lai đã có Sàrìputta và Mahà Moggallàna vậy. Trong tương lai chư Phật cũng sẽ có như thế, như hiện tại Như Lai đã có hai vị đệ tử ưu tú vừa nhập diệt. Đó là những công đức vô lượng, những nhân vật tuyệt diệu nhất. Này chư Tỳ-khưu! Các ông nên tưởng nhớ đến những Đại đệ tử Phật như thế, vì họ đã song hành và hòa hợp trong Ba la mật pháp của vị Bổn Sư. Họ có thể thay thế đức Thế Tôn để giáo huấn các hàng đệ tử một cách đúng đắn. Đối với toàn thể tứ chúng họ rất yêu mến và cũng được kính mến tin tưởng trở lại bởi mọi người. Này chư Tỳ-khưu, họ là hiện thân của những phúc đức kỳ lạ, là hội tụ của những tâm trí cao thượng nhất. Các ông hãy niệm tưởng đến các bậc hoàn toàn như thế. Và khi một đôi Đại đệ tử thuộc hạng này đã nhập diệt, đối với một đấng Toàn Giác, không có vấn đề âu sầu than tiếc. - Những hình thức nào được sinh ra, trưởng thành bởi cấu hợp chỉ là những sự biểu thị cho giai đoạn tan vỡ. Nó đã bắt đầu như thế nào thì nó cũng sẽ kết thúc như thế ấy, đây là một định luật không ai có khả năng biến đổi được. - Này chư Tỳ-khưu! Do dó các ông hãy tự tạo cho mình một hòn đảo, để tránh làn sóng sinh tử luân hồi. Hãy tập từ bỏ cái bản ngã vô thực của mình đi, tẩy trừ sự dễ duôi, phải đem giáo lý giải thoát mà xây dựng cho đời mình. Chúng tôi muốn kết thúc CUỘC ĐỜI CỦA ĐẠI ĐỨC Sàrìputta (Hay XÁ LỢI PHẤT)... Bằng những lời dạy trên đây của đức Phật. Những giáo huấn này vẫn còn âm vang mãi cho đến ngày nay. Đại Đức Sàrìputta không phải chỉ được chính Đức Phật khen ngợi, không phải chỉ được toàn thể Thánh Tăng thời Phật còn tại tiền tán dương, mà ngày nay Ngài cũng vẫn được tất cả Phật tử trên năm châu bốn biển tôn kính, xem Ngài như là một Đại Bác Học trong kho tàng Phật giáo. Đại Đức Sàrìputta tịch vào ngày trăng tròn tháng Kattilà, tức nhằm ngày Rằm tháng mười dương lịch. Còn Đại Đức Mahà Moggallàna nhập diệt sau đó nửa tháng, vào một ngày Uposattha có trăng non. (Theo chú giải Kinh Ukkacela). Rồi nửa năm sau thì đến ngày nhập Niết Bàn theo thông lệ của chư Phật quá khứ. Nếu kể luôn sự nhập Niết Bàn của đức Phật, thì đây là một chuỗi tịch diệt vô cùng lịch sử của ban nhân vật vĩ đại nhất thế gian. Khoảng cách từ Đại Đức Sàrìputta viên tịch đến khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn chỉ có sáu tháng. Trong vòng nửa năm trời đó, chư Thiên và nhân loại đã trải qua một thời gian đầy quả phúc lẫn mất mát: Đầy quả phúc vì trước khi nhắm mắt, các Ngài dù Thinh Văn Giác hay Toàn Giác, đã đem tất cả ân đức của mình ban bố hết cho thế gian, bởi các Ngài không bao giờ mang quả phúc vào trong cõi Vô Sinh Bất Diệt. Mất mát vì nhân loại khi đã vắng bóng các Ngài rồi thì muôn ngàn kiếp sống luân hồi về sau mỗi ngày một tiến sâu vào cảnh hỗn mang đen tối. Một điều đáng cho chúng ta lấy làm thắc mắc là tại sao các Ngài không nhập diệt bằng một lịch trình xa hơn, nghĩa là cách nhau đôi ba năm nay càng lâu càng tốt, để cho chúng sinh mê muội được nhờ. Đàng này các Ngài đã lần lượt ra đi chỉ trong vòng sáu tháng? Sự giải đáp chỉ có thể tìm thấy trong Kinh Milanda Panhà (Mi Lan Đà Vấn Đạo): Theo đó, đức Na Tiên Tỳ-khưu đã giảng giải cho vua Mi Lan Đà nghe rằng: - Tâu đại vương! Trong nhiều trăm ngàn kiếp qua, đức Trưởng lão Sàrìputta đã từng làm thân phụ của vị Bồ Tát. Có khi là ông nội, có khi làm chú bác, anh em, con cháu, hoặc bạn bè của chính Bồ Tát tiền thân Phật Thích Ca. Do vòng nhân duyên tiến hóa ấy, liên kết họ cùng thời từ nhiều kiếp trước. Cho nên đến kiếp sau cùng, sự gặp lại của ba vị chỉ là giai đoạn viên mãn tự nhiên, và tuổi thọ nhục thân của họ phải suýt soát nhau. Còn cái vòng sinh tử trước đó chính là những nấc thang để nâng họ lên cõi bất tử. Trong kiếp sống sau cùng, các Ngài chỉ còn một việc phải làm là thắp sáng ngọn đuốc giải thoát một cách vinh quang để chiếu sáng cho cõi đời. Sức sáng ấy bây giờ và mãi mãi về sau vẫn còn tiếp tục.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Gautama Buddha)
Tôn giả ĐẠI CA DIẾP: Đầu Đà đệ nhất (Mahakasyapa - Mahakassapa) (Vị trưởng lão tu khổ hạnh mẫu mực nhất)
Tôn giả ƯU BA LI: Trì giới đệ nhất (Upali) (Vị luật sư mô phạm và uy tín nhất)
Tôn giả A NAN: Đa Văn đệ nhất (Ananda) (Vị thượng thủ nghe nhiều nhớ kĩ nhất)
Thần thông đệ nhất (Maudgalyayana - Moggallana)
Tôn giả LA HẦU LA: Mật hanh đệ nhất (Rahula) (Oai nghi tế hạnh bậc nhất tăng đoàn)
Tôn giả PHÚ LÂU NA: Thuyết pháp đệ nhất. Purna vị giảng sư tài giỏi nhất
Tôn giả TU BỒ ĐỀ: Giải Không đệ nhất (Subhuti) (Thể nhập diệu lí “KHÔNG” hơn ai hết)
Tôn giả CA CHIÊN DIÊN: Luận Nghị đệ nhất (Katyayana - Kaccayana, Kaccana) (Vị luận sư lỗi lạc nhất)
Tôn giả A NA LUẬT: Thiên nhãn đệ nhất (Aniruddha - Anurauddha) (Mắt trời thấy suốt, không gì chướng ngại)