Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni

08/10/20178:05 CH(Xem: 8179)
Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Gautama Buddha)

Nhận Xét Về Sử Liệu

Có rất nhiều sử liệu ghi lại khác nhau về ngày, tháng, năm liên hệ đến các sự kiện lịch sử đức Phật. Các nhà học giả Phật giáo và các nhà nghiên cứu Phật học đã nêu nhiều lý do về sự sai biệt đó. Chẳng hạn, Lương Khải Siêu trong tập “Phật học Nghiên cứu Thập bát thiên” cho rằng: “Vì người Ấn Độ xem thường lịch sử, vả lại, quan niệm thời gian của họ rất mơ hồ, nên những sách vở Ấn ngữ đối với niên đại sanh diệt của đức Phật không một sách nào chép rõ ràng, minh xác” (1). Về điều này, không hẳn là người Ấn không có quan niệm rõ ràng về thời gian, hay không có quan niệm lịch sử rõ ràng. Lịch sử cho thấy người Ấn có quan niệm lịch sử sớm nhất, đặc biệt là ở Phật giáo. Chúng ta có thể nhìn thấy nhiều sử liệu qua năm Nikàyas và bốn A-hàm (Agamas), qua bia ký của vua A-dục (Asoka), trong Thiện Kiến Luật, Tỳ-bà-sa, A-tỳ-đạt-ma…

Người viết nghĩ rằng sự sai khác về các niên đại lịch sử đức Phật có thể là do các lý do đơn giản sau đây:

– Lịch ghi của các nước thời xưa khác nhau, và các lịch ghi ấy lại khác hẳn với Tây lịch mà thế giới hôm nay đang dùng, nó cũng khác hẳn với âm lịch của Trung Hoa.

– Thời đức Phật tại thế, gồm cả kỳ kiết tập đầu tiên, các vị tu sĩ thiếu điều kiện ghi chép, chỉ trùng tuyên. Khi trùng tuyên, các vị đệ tử thường nhớ rõ nội dung giáo lý giải thoát mà khó nhớ đúng ngày, tháng của các sự kiện lịch sử, hoặc không chú ý ghi lại các ngày, tháng ấy… Cũng có thể các sử liệu ghi lại đúng các ngày, tháng lịch sử, nhưng trải qua các thay đổi, chiến tranh, các thế kỷ truyền thừa… các sử liệu ấy bị thất lạc, hoặc bị ghi chép sai lầm.

– Có khi do sự tranh chấp ảnh hưởng giữa các học phái mà ngày, tháng, năm ra đời của đấng Giáo chủ hay của hệ tư tưởng bị sửa lại khác đi, như trường hợp cạnh tranh ảnh hưởng Phật, Lão, Khổng ở Trung Hoa.

– Cũng có thể có các tài liệu giả do ngoại đạo đánh tráo vào các tài liệu lịch sử của Phật giáo để phục vụ ý đồ của ngoại giáo.

– Cũng có thể do các lý do xã hội, chính trị của các thời đại, tài liệu bị ghi lại lệch đi, hoặc do sự ghi chép chủ quan và bị giới hạn của người biên khảo.

– Cũng có thể sử liệu được ghi lại và được điều chỉnh theo quan niệm của bộ phái.

Qua một số lý do vừa nêu, chúng ta không phải quá bận tâm đến sự chính xác của một số sự kiện lịch sử và các ngày, tháng, lịch sử của đức Phật. Điều đáng ghi nhận nhất là hầu hết các sử liệu, gồm bia ký của vua A-dục, đều xác nhận đức Phật là một nhân vật lịch sử, chứ không phải là một nhân vật thần thoại, dù được nhìn dưới cái nhìn của Bắc tạng hay Nam tạng.

Ở đây, người viết lược sử đức Thế Tôn dựa trên kinh tạng Nikàya, kinh tạng A-hàm (Agama), bia ký của vua A-dục, tài liệu của kỳ đại hội Tổng Hội Phật giáo Thế giới họp lần II tại Tokyo năm 1952, với sự tham khảo thêm tài liệu Phật giáo của Edward J. Thomas (tác giả cuốn “The Life of Buddha as Legend and History”, “Buddhist Thought”, “Early Budhist Scriptures”) và của Kimura Taiken (tác giả của bộ “Lịch sử Tư tưởng Nguyên Thủy, Tiểu thừa và Đại thừa”).

Bồ Tát Trước Khi Nhập Thai

Nam tạng và Bắc tạng nhìn khác nhau về đức Phật, Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ cũng nhìn khác nhau về Ngài.

Bắc tạng cho rằng đức Phật đã thành Phật từ lâu, kiếp này chỉ là thị hiện. Nam tạng thì cho rằng kiếp này của Thế Tôn là kiếp cuối cùng thành Phật; kiếp trước đây, Ngài là Bồ Tát ở cung trời Đâu-suất (Tusita) – cõi trời thứ tư trong sáu cõi trời Dục giới (Tứ thiên vương, Tam thập tam, Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa lạc và Tha hóa tự tại). Cõi này có bốn ngàn tuổi thọ, tương đương với năm trăm bảy mươi sáu triệu năm của con người trên trái đất (theo kinh Đại Bổn, Trường Bộ kinh III; kinh Hi Hữu Vị Tằng Hữu Pháp, Trung Bộ III; Vị Tằng Hữu Pháp, Trung A-hàm, số 32 đại I, 469c; và Kinh Tập, Tiểu Bộ kinh).

Quan niệm của Bắc tạng thì tương tự với quan niệm tôn giáo của phần lớn các tôn giáo khác, thường có khuynh hướng siêu thực, Thánh hóa vị Giáo chủ.

Thượng tọa bộ thì nhìn đức Phật một cách hiện thực hơn, đi sát với các sự kiện lịch sử. Nhưng cả hai Nam và Bắc tạng, đều xác nhận: trước khi thành Phật, Thế Tôn được gọi là một Bồ Tát ở Đâu-suất.

Cách nay chín mươi mốt kiếp (1 kiếp “kappa, kalpa”: bằng đời sống của một thế giới, bằng một ngày đêm của cõi trời Phạm thiên, bằng bốn ngàn ba trăm hai mươi triệu năm ở trái đất: theo Tự điển Sanskrit của Amarasimhakosa), Thế Tôn Tỳ-bà-thi (Vipassi) ra đời. Cách nay ba mươi mốt kiếp, Thế Tôn Thi-khí (Sikhi), Tỳ-xá-phù (Vessasbhù), Câu-lưu-tôn (Kakusandha), Câu-na-hàm (Konàgamana) và Thế tôn Ca-diếp (Kassapa) đã ra đời. (Theo kinh Đại Bổn và Vị Tằng Hữu Pháp, như vừa trích dẫn ở trên).

Ở Đâu-suất, Thế Tôn luôn luôn an trú trong chánh niệm tỉnh giác. Một lần, một số chư Thiên ở Đâu-suất và chư Thiên ở các cõi Sắc giới, “các vị Trời trước đây đã được Thế Tôn Tỳ-bà-thi giáo hóa – thuật lại cho Bồ Tát nghe về các sự kiện chư Thế Tôn trước đây đã ra đời và thỉnh cầu Bồ Tát xuống trần để hóa độ chúng sinh”. Nay là thời điểm của đức Thế Tôn.

Bồ Tát Vào Thai Mẹ

(Theo kinh Hi Hữu Vị Tằng Hữu Pháp; Vị Tằng Hữu Pháp…)

Khi hết tuổi thọ ở Đâu-suất, Bồ tát chánh niệm tỉnh giác đi vào thai mẹ, Hoàng hậu Ma-da (Màyadevi) ở kinh thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu, Skt. Kapilavastu).

Bấy giờ một hào quang kỳ diệu, thắng xa hào quang chư Thiên, thắng xa ánh sáng mặt trời, soi sáng khắp các cõi, khắp đến những nơi tối tăm mà ánh sáng mặt trời không thể soi thấu, mười nghìn thế giới rung động, chấn động mạnh Bồ tát ở trong thai mẹ như ở trong chiếc hộp kim cương trong sáng, có bốn Thiên tử canh gác bốn góc trời, không để cho loài Người hay khác loài Người xúc phạm đến thai nhi và Hoàng hậu.

Trong lúc mang thai, người mẹ hưởng đầy đủ năm dục công đức (sắc, thanh, hương, vị, xúc) và thấy rõ thai nhi như thấy rõ viên ngọc ở trong lòng bàn tay, với đầy đủ các bộ phận của cơ thể, rất hoàn mỹ. Thời gian mang thai là mười tháng. Trong thời gian này, tâm người mẹ thường hoan hỷ, không khởi lên dục ý với bất cứ người khác phái nào.

Ngày Đản Sanh

(Theo kinh Đại Bổn; Vị Tằng Hữu Pháp…)

Theo truyền thuyết Phật giáo, mẹ của Bồ tát đứng mà sanh. Hoàng hậu Ma-da sanh Hoàng tử nơi cội hoa Vô-Ưu, khi đang thưởng hoa ở vườn Ngự Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Khi ra khỏi lòng mẹ, Thái tử oai nghiêm như một Pháp sư đang bước xuống Pháp tòa, sáng chói như một viên hồng ngọc, thanh tịnh, không dính một chất dơ nào từ lòng người mẹ, chân Thái tử không chạm đất, có bốn Thiên tử đỡ (rồi chuyển qua tay con người), đặt Thái tử trước Hoàng hậu và thưa: “Hoàng hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu vừa sanh một vĩ nhân”. Từ hư không có một dòng nước ấm và một dòng nước mát tắm gội cho Thái Tử và Hoàng hậu. Thái tử đứng vững chân, mặt hướng về phương Bắc, bước đi bảy bước (đây là bảy bước đi truyền thống của chư Phật), có lọng trắng che, nhìn khắp mọi phương, rồi cất tiếng nói với giọng êm ả như tiếng chim Ca-lăng-tần-già (sống ở Hi-mã), vừa trầm hùng như tiếng Ngưu vương, rằng: “Ta là bậc Tối thượng ở đời. Ta là bậc Tôn kính ở đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn sanh lại nữa”.

Truyền thống kinh Bắc tạng và A-hàm (Kinh Đại Bản Duyên) cho rằng Thái tử sanh ra từ hông bên hữu của Hoàng hậu, bước đi hay bước, tay chỉ trời, tay chỉ đất mà nói rằng: “Trên trời và dưới đất chỉ có Ta là hơn cả”.

Bấy giờ, một hào quang kỳ diệu… chiếu khắp mười nghìn thế giới, các thế giới đều chấn động, rung động.

Đại hội Phật giáo Thế giới họp kỳ II tại Tokyo (Nhật Bản), 1952, ghi ngày Phật đản sinh là ngày trăng tròn tháng Vesaskha của Ấn Độ, năm 624 trước Tây lịch. Ngày, tháng, năm này dựa vào truyền thống của Phật giáo Tích Lan. Theo đó, Phật lịch tính từ năm đức Phật nhập Niết bàn, năm 544 trước Tây lịch.

Theo Edward J. Thomas trong cuốn “The life of Buddha as Legend and History”, ấn hành ở London năm 1956, thì ngày Đản sanh vào năm 563 trước Tây Lịch. Cách tính này dựa vào bia ký của triều đại các vua xứ Ma-kiệt-đà, vua A-dục và Chandagupta, liên hệ đến sự kiện lịch sử của đức Phật.

Theo tài liệu của Lương Khải Siêu, trong tập “Phật học Nghiên cứu Thập bát thiên”, dẫn chứng từ “Thiện Kiến Luật” thì Phật nhập Niết Bàn vào năm thứ 35 vua Kinh Vương nhà Châu, hay là nhằm đời Ai Công năm thứ 7 nước Lỗ, tức trước Tây Lịch 485 năm; liền sau khi Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) kiết tập Luật tạng, lập nên bộ Thiện Kiến Luật. Mỗi năm, vào ngày Tự tứ, bộ luật được dâng hương cúng dường và ghi vào phía sau một điểm (chấm). Bộ luật này được truyền thừa liên tục. Ngài Tăng-già-bạt-đà-la (Sanghabhadra) đem bộ Luật sang Trung quốc vào đời Tề, năm 489 Tây lịch và dịch ra Hán văn tại chùa Trúc Lâm, Quảng Châu. Ngày Tự tứ năm ấy ghi đến điểm thứ 967 (Dựa vào đây để xác định năm Phật nhập Niết bàn).

Thân Thế Hoàng Tử

(Theo Kinh Đại Bổn; Kinh Tập – Sutta Nipatta; bia ký của vua A-Dục; và tài liệu Edward J. Thomas).

Thái tử tên là Tất đạt đa (Siddhattha, Skt. Siddhar-tha), thân phụ là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và thân mẫu là Hoàng hậu Ma-da (Màyà), dòng dõi Thích Ca (Sakya, Skt. Sàkya), giai cấp Sát-đế-lợi (Khattya, Skt. Kastriya), ở kinh đô Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu, Skt. Kapilavastu) thuộc xứ Nepal Therai, Đông Bắc Ấn Độ.

Di mẫu của Thái tử là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahàpajapati) em ruột của Hoàng hậu Ma-da, con gái của vua Anjana, dòng họ Koliya.

Bảy ngày sau khi đản sanh, hoàng hậu Ma-da thác sinh về cung trời Đâu-suất. Bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng Hoàng tử để về sau kế vị vua Tịnh Phạn.

Tướng Mạo Của Hoàng Tử

(Kinh Đại Bổn, Kinh Tập, Tiểu Bộ Kinh).

Liền sau ngày Đản sanh, vua Tịnh Phạn cho mời các Bà-la-môn đến xem tướng Thái tử. Các Bà-la-môn tâu rằng: “Thái tử có đủ ba mươi hai tướng tốt, là một bậc vĩ nhân. Ai có đủ ba mươi hai tướng quý sẽ là một Chuyển luân Thánh vương nếu sống tại gia; sẽ là một A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nếu xuất gia”. Riêng Đạo sĩ A-tư-đà (Asita) người tu ở núi Hi-mã, vốn đã được nghe lời chư Thiên Tam thập tam bàn tán về Thái tử rằng Người sẽ là bậc Chánh Đẳng Giác, quả quyết nói rằng “Thái tử nhất định sẽ xuất gia, nhất định sẽ thành Phật và chuyển bánh xe Pháp”.

Ba mươi hai tướng quý của Thái tử gồm có:

Lòng bàn chân bằng phẳng.
2. Gót chân thon.
3. Ngón tay, ngón chân thon dài.
4. Tay, chân mềm mại.
4. Chân có màn da lưới.
6. Mắt cá tròn như con sò.
7. Ống chân như chân con dê rừng.
8. Tay dài đến đầu gối.
9. Tướng mã âm tàng.
10. Da trơn mượt, bụi không thể nào dính.
11. Mỗi lỗ chân lông có một lông mọc.
12. Màu da như đồng, màu sắc như vàng.
13. Lông mọc xoáy tròn về phía bên phải, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt.
14. Thân hình cao thẳng.
15. Bảy chỗ tròn đầy.
16. Nửa mình trước thân sư tử.
17. Không có lõm khuyết giữa hai vai.
18. Thân cân đối như cây bàng (Nigrodha), bề cao của thân bằng bề dài của hai sải tay dang rộng.
19. Nửa thân trên vuông tròn.
20. Vị giác hết sức bén nhạy.
21. Quai hàm sư tử.
22. Có bốn mươi răng.
23. Răng không khuyết hở.
24. Răng trơn láng.
25. Răng đều đặn.
26. Lưỡi rộng và dài.
27. Giọng nói êm ả như tiếng chim Ca-lăng-tần-già
28. Đôi mắt màu xanh đậm.
29. Có lông mi như con bò cái.
30. Có một sợi lông trắng mịn giữa hai lông mày.
31. Hai lòng bàn chân có hai hình bánh xe với một ngàn tăm xe.
32. Có nhục kế trên đầu.

Một số tài liệu khác còn kể thêm tám mươi vẻ đẹp phụ nữa.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Tôn giả ĐẠI CA DIẾP: Đầu Đà đệ nhất (Mahakasyapa - Mahakassapa) (Vị trưởng lão tu khổ hạnh mẫu mực nhất)
Tôn giả ƯU BA LI: Trì giới đệ nhất (Upali) (Vị luật sư mô phạm và uy tín nhất)
Tôn giả A NAN: Đa Văn đệ nhất (Ananda) (Vị thượng thủ nghe nhiều nhớ kĩ nhất)
Thần thông đệ nhất (Maudgalyayana - Moggallana)
(Sariputra - Sariputa) (Vị thượng thủ có trí tuệ siêu việt nhất)
Tôn giả LA HẦU LA: Mật hanh đệ nhất (Rahula) (Oai nghi tế hạnh bậc nhất tăng đoàn)
Tôn giả PHÚ LÂU NA: Thuyết pháp đệ nhất. Purna vị giảng sư tài giỏi nhất
Tôn giả TU BỒ ĐỀ: Giải Không đệ nhất (Subhuti) (Thể nhập diệu lí “KHÔNG” hơn ai hết)
Tôn giả CA CHIÊN DIÊN: Luận Nghị đệ nhất (Katyayana - Kaccayana, Kaccana) (Vị luận sư lỗi lạc nhất)
Tôn giả A NA LUẬT: Thiên nhãn đệ nhất (Aniruddha - Anurauddha) (Mắt trời thấy suốt, không gì chướng ngại)